Пікірлер
@user-jw9li5vi7m
@user-jw9li5vi7m Күн бұрын
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật..Nam Mô A Di Đà Phật..Con Kính Chúc Thầy Thật Nhiều Sức Khỏe..
@user-jw9li5vi7m
@user-jw9li5vi7m Күн бұрын
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật..Nam Mô A Di Đà Phật..Con Kính Chúc Thầy Thật Nhiều Sức Khỏe..
@user-jw9li5vi7m
@user-jw9li5vi7m 3 күн бұрын
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật..Nam Mô A Di Đà Phật..Con Kính Chúc Thầy Thật Nhiều Sức Khỏe..
@user-jw9li5vi7m
@user-jw9li5vi7m 3 күн бұрын
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật..Nam Mô A Di Đà Phật..Con Kính Chúc Thầy Thật Nhiều Sức Khỏe..
@phungmai1258
@phungmai1258 6 күн бұрын
Nam mo a di đa phat con nguyen đem cong đuc con hoi huong cho tat ca tre gia nam nu gay trai ai an o hien lanh ddeu đuoc an yen tu tai
@user-jw9li5vi7m
@user-jw9li5vi7m 8 күн бұрын
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật..Nam Mô A Di Đà Phật..Con Kính Chúc Thầy Thật Nhiều Sức Khỏe..
@chuniversity
@chuniversity 9 күн бұрын
Tôi cầu xin cac su Tăng, Ni, Phật tử nên tập trung dạy giáo lý nhà Phật thì tốt hơn. Đức Thánh Tôn có nói là "Ta không phải là Thầy, nhưng giáo lý Ta mới là Thầy". Giáo lý rất là quan trọng. Các sư tăng, ni nên học hỏi và nghiên cứu về kinh Nikaya, và cũng dạy các giáo dân nhà Phật không nên mê tín dị đoan. Nên khuyên các giáo dân nhà Phật phải giữ giới.
@user-jw9li5vi7m
@user-jw9li5vi7m 9 күн бұрын
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật..Nam Mô A Di Đà Phật..Con Kính Chúc Thầy Thật Nhiều Sức Khỏe..
@RajeshKumar-th8cy
@RajeshKumar-th8cy 13 күн бұрын
very nice your speech Sir ji . very good and true we love your all speech and I learning Many things for My self from your speech . thank you very much 🙏❤️ Love form India
@user-jw9li5vi7m
@user-jw9li5vi7m 13 күн бұрын
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật..Nam Mô A Di Đà Phật..Con Kính Chúc Thầy Thật Nhiều Sức Khỏe..
@user-jw9li5vi7m
@user-jw9li5vi7m 14 күн бұрын
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật..Nam Mô A Di Đà Phật..Con Kính Chúc Thầy Thật Nhiều Sức Khỏe..
@user-jw9li5vi7m
@user-jw9li5vi7m 14 күн бұрын
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật..Nam Mô A Di Đà Phật..Con Kính Chúc Thầy Thật Nhiều Sức Khỏe..
@LanNguyen-ne9vx
@LanNguyen-ne9vx 16 күн бұрын
A Di Da Phat 🙏🙏🙏
@tuongviho5766
@tuongviho5766 16 күн бұрын
A di đà Phật, con chúc thầy thật nhiều sức khỏe ❤
@LanNguyen-ne9vx
@LanNguyen-ne9vx 17 күн бұрын
A Di Da Phat 🙏🙏🙏
@Pearlsoymilk
@Pearlsoymilk 17 күн бұрын
Nam mô A Di Đà Phật, chúc Thầy buổi sáng tốt lành, cảm ơn tam bảo, cảm ơn Thầy vì các bài giáo pháp Thầy mang đến để mỗi ngày con đều được nghe cho thân tâm học thiền định
@linhha684
@linhha684 18 күн бұрын
Nam mô A Di Đà Phật
@user-jw9li5vi7m
@user-jw9li5vi7m 20 күн бұрын
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật..Nam Mô A Di Đà Phật..Con Kính Chúc Thầy Thật Nhiều Sức Khỏe..
@thilinhvu6108
@thilinhvu6108 20 күн бұрын
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
@lilacleoluoiac
@lilacleoluoiac 22 күн бұрын
cho con hỏi những trang youtube khác như "Thượng Tọa Thích Pháp Hòa"; "Thầy Thích Pháp Hòa"; "Thầy Thích Pháp Hòa Canada " ; "Vấn đáp Thầy Thích Pháp Hòa".... có phải là trang chính chủ do Tu viện Trúc Lâm lập ra hay không ạ? Con rất thắc mắc tại sao cái trang dẫn trực tiếp từ web của TV Trúc Lâm thì lượt view, follow, comment lại rất thấp so với các trang được nêu ở trên đây? Con muốn làm rõ để lần sau nếu có nghe pháp thì chú ý nghe của chính chủ. Mong thầy nào đọc được hoan hỷ giải đáp. Nam Mô A Di Đà Phật!
@user-qh7qr7vu5o
@user-qh7qr7vu5o 23 күн бұрын
Em có thể gửi câu hỏi cho thầy bằng cách nào ạ ?
@ngocthuyle5075
@ngocthuyle5075 24 күн бұрын
😂❤🎉😮
@sauhuynh7066
@sauhuynh7066 Ай бұрын
Nam mô A Di Đà Phật Nam mô A Di Đà Phật Nam mô A Di Đà Phật ! ❤❤❤ ! 🎉 ( ❤! 🎉
@DoanhPham-pi9wu
@DoanhPham-pi9wu Ай бұрын
12
@LanNguyen-ne9vx
@LanNguyen-ne9vx Ай бұрын
A Di Da Phat 🙏🙏🙏
@LanNguyen-ne9vx
@LanNguyen-ne9vx Ай бұрын
A Di Da Phat 🙏🙏🙏
@LanNguyen-ne9vx
@LanNguyen-ne9vx Ай бұрын
A Di Da Phat 🙏🙏🙏
@tuongviho5766
@tuongviho5766 Ай бұрын
Nam mô a di đà Phật
@user-qv1yo3qe1q
@user-qv1yo3qe1q Ай бұрын
Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật : Trưởng Lão Ni Kệ - Kinh Tiểu Bộ - Khuddaka Nikàya - Chúng con thành tâm tri ân công đức của Thị Giả, Tôn Giả, Đại Trưởng Lão, Trưởng Lão, Hòa Thượng, Sư, Sư Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thượng Minh Hạ Châu, Ni Trưởng, Thượng Tọa, Ni Sư, Đại Đức, Sư Cô, Tỳ Kheo, Tỳ kheo Ariyasilo, Tỳ Kheo Ni, Sa Di, Sa Di Ni, Tu Nữ, Tăng Đoàn, Tinh Xá, Phật Tử, Tứ Chúng,…… Của Phật Giáo Nam Tông, Theravada, Bắc Tông : ( đoạn 16 ) : Phẩm XIII - Tập Hai Mươi Kệ : 66 / Trưởng Lão Ni Ambapàlì ( Therì. 147 ) : Trong thời Đức Phật hiện tại, nàng được sanh dưới một gốc cây xoài trong vườn Vua Vesàli và được gọi là Ambapàli. Nàng rất đẹp nên đến khi lớn lên nhiều vương tôn công tử cạnh tranh để chiếm đoạt nàng. Về sau để tránh những cạnh tranh ấy và cũng do nghiệp lực của nàng, nàng trở thành một kỹ nữ. Vì lòng tin đối với Bậc Bổn Sư, nàng xây dựng một tinh xá trong ngôi vườn của nàng và cúng cho Đức Phật và Chúng Tăng. Khi nàng nghe con nàng, tức là Trưởng Lão Vimalakondanna thuyết pháp, nàng triển khai thiền quán về lý vô thường, như thân nàng, chứng Tam minh và nàng nói lên những bài kệ sau đây : 252. Ðen như sắc con ong, Tóc dài ta khéo uốn, Nay biến đổi vì già, Như vải gai, vỏ cây, Ðúng như lời giảng dạy, Của Bậc nói sự thật. 253. Thơm như hộp ướp hương, Ðầu ta đầy những hoa, Nay biến đổi vì già, Hôi như lông con thỏ, Ðúng như lời giảng dạy, Của Bậc nói sự thật. 254. Như rừng khéo vun trồng, Lược kim tu chói sáng, Nay biến đổi vì già, Tóc lơ thơ rơi rụng, Ðúng như lời giảng dạy, Của Bậc nói sự thật 255. Trang điểm với bện tóc, Sáng chói nữ trang vàng, Tóc mềm mại êm dịu, Thơm ngát với mùi hương, Nay biến đổi vì già, Rơi rụng đầu sói trọc, Ðúng như lời giảng dạy, Của Bậc nói sự thật. 256. Trước lông mày của ta, Chói sáng khéo tô vẽ, Nay biến đổi vì già, Nhăn nheo, rơi suy sụp, Ðúng như lời giảng dạy, Của Bậc nói sự thật. 257. Mắt ta xanh và dài, Sáng đẹp như châu báu, Nay biến đổi vì già, Hư hại không chói sáng, Ðúng như lời giảng dạy, Của Bậc nói sự thật. 258. Lỗ mũi mềm và thon, Sáng chói và trẻ măng, Nay biến đổi vì già, Héo khô và tàn tạ, Ðúng như lời giảng dạy, Của Bậc nói sự thật. 259. Trước tai ta sáng chói, Như vàng vòng khéo làm, Nay biến đổi vì già, Nhăn nhiu chảy xệ xuống, Ðúng như lời giảng dạy, Của Bậc nói sự thật. 260. Trước răng ta sáng chói, Như búp nụ chuối hoa, Nay biến đổi vì già, Bể gãy vàng như lúa, Ðúng như lời giảng dạy, Của Bậc nói sự thật. 261. Ngọt là giọng nói ta, Như chim cu hót rừng, Nay biến đổi vì già, Tiếng bể bị đứt đoạn, Ðúng như lời giảng dạy, Của Bậc nói sự thật. 262. Trước cổ ta chói sáng, Mềm đầy đặn nhu nhuyến, Nay biến đổi vì già, Nhiều ngấn và khô cằn, Ðúng như lời giảng dạy, Của Bậc nói sự thật. 263. Trước cánh tay của ta, Sáng như hai cột tròn, Nay biến đổi vì già, Như hoa kèn yết ớt, Ðúng như lời giảng dạy, Của Bậc nói sự thật. 264. Trước bàn tay của ta, Mềm mại như cành hoa, Sáng như nữ trang vàng, Nay biến đổi vì già, Như rễ cây khô cằn, Nhăn nhiu và thô nhám, Ðúng như lời giảng dạy, Của Bậc nói sự thật. 265. Trước vú ta sáng chói, Căng thẳng và tròn đầy, Nay biến đổi vì già, Trống rỗng treo lủng lẳng, Như da không có nước, Trống không, không căng tròn, Ðúng như lời giảng dạy, Của Bậc nói sự thật. 266. Trước thân ta chói sáng, Như giáp vàng đánh bóng, Nay biến đổi vì già, Ðầy vết nhăn nhỏ xíu, Ðúng như lời giảng dạy, Của Bậc nói sự thật. 267. Trước bắp vế của ta, Sáng chói như vòi voi, Nay biến đổi vì già, Giống như những ống tre, Ðúng như lời giảng dạy, Của Bậc nói sự thật. 268. Trước ống chân của ta, Mềm mại như vòng vàng, Nay biến đổi vì già, Chẳng khác gậy cây mè, Ðúng như lời giảng dạy, Của Bậc nói sự thật. 269. Trước chân ta chói sáng, Với lông mềm như bông, Nay biến đổi vì già, Nứt nẻ đầy đường nhăn, Ðúng như lời giảng dạy, Của Bậc nói sự thật. 270. Thân này là như vậy, Nay già chứa nhiều khổ, Ngôi nhà đã cũ kỹ, Vôi trét tường rơi xuống, Ðúng như lời giảng dạy, Của Bậc nói sự thật. Và Vị Trưởng Lão Ni, thấy được những hình tướng vô thường trên thân của mình, nhận thức được tánh vô thường của ba giới : Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới, tâm tư quán triệt tánh Vô thường, Khổ, Vô ngã, và phát triển tuệ quán trên con đường tu tập chứng được quả A La Hán. 67 / Trưởng Lão Ni Rohinì ( Therì. 150 ) : Trong thời Đức Phật hiện tại, nàng sanh ở Vesali trong nhà một phú gia Bà La Môn và được đặt tên là Rohinì ( con bò đỏ, nâu ). Ðến tuổi trưởng thành, khi Đức Phật còn ở Vesali, nàng đến nghe pháp, chứng được quả Dự lưu. Rồi nàng giảng pháp cho Cha Mẹ, Cha Mẹ chấp nhận pháp và cho phép nàng xuất gia. Nàng khai triển thiền quán và không bao lâu chứng quả A La Hán với hiểu biết về nghĩa và về pháp. Suy tư đến một cuộc đàm thoại về pháp với Phụ Thân, khi nàng mới chứng quả Dự lưu, nàng nói lên sự phấn khởi của nàng với những bài kệ sau đây về nội dung cuộc đàm thoại : 271. Nàng chỉ cho ta thấy, Ðây là một Sa Môn, Nàng thức ta tỉnh dậy, Ðây là một Sa Môn, Nàng khen tặng Sa Môn, Muốn thành nữ Sa Môn. 272. Nàng tìm cho Sa Môn Rất nhiều đồ ăn uống, Này hỡi, Rô Hi Ni, Sao nàng quý Sa Môn ? 273. Họ nhác không thích làm, Sống với đồ người cho, Họ ham lợi thích ngọt, Sao nàng quý Sa Môn ? 274. Cha thân đã lâu rồi, Cha hỏi về Sa Môn, Con sẽ tán thán họ Tuệ giới hạnh tinh cần. 275. Họ thích làm không nhác, Họ làm việc tối thắng, Họ trừ bỏ tham sân, Vì vậy con quý họ. 276. Ba cội gốc điều ác, Họ quét sạch thanh tịnh, Mọi điều ác đoạn tận, Vì vậy con quý họ. 277. Thân nghiệp họ trong sạch, Khẩu nghiệp họ cũng vậy, Ý nghiệp họ trong sạch, Do vậy con quý họ. 278. Không cấu uế giải thoát, Như vỏ ốc trong sạch, Trong sạch cả bên trong, Trong sạch cả bên ngoài, Công đức họ trắng tinh, Do vậy con quý họ. 279. Nghe nhiều thọ trì pháp, Mạng sống đúng Chánh pháp, Họ thuyết nghĩa thuyết pháp, Do vậy con quý họ. 280 - 281. Nghe nhiều thọ trì pháp, Mạng sống đúng Chánh pháp, Nhứt tâm giữ chánh niệm, Lời sáng suốt khiêm nhường Họ chấm dứt đau khổ, Do vậy con quý họ. 282. Từ làng họ ra đi, Không nhìn ngó vật gì, Họ đi không mong chờ, Do vậy con quý họ. 283. Không tìm cầu kho tàng, Không kho chứa, kho cất, Họ tầm cầu cứu cánh, Do vậy con quý họ. 284. Họ không nắm giữ tiền, Không nắm vàng, nắm bạc, Họ sống với hiện tại, Do vậy con quý họ. 285. Từ gia đình quốc độ, Họ xuất gia khác nhau, Nhưng họ thương kính nhau, Do vậy con quý họ. 286. Hỡi này Rô Hi Ni, Nàng sanh trong gia đình, Nàng đem lại hạnh phúc, Cho gia đình chúng tôi, Nàng tin Phật, Pháp, Tăng, Lòng tín kính sắc bén. 287. Nàng biết rõ cái này, Là ruộng phước vô thượng, Chúng tôi cùng tín kính, Các Vị Sa Môn này, Tế đàn thiết lập đây, Ðối với tôi rất lớn. 288. Nếu Cha sợ đau khổ, Nếu Cha không thích khổ, Hãy quy y Phật Đà, Quy y Pháp và Tăng, Hãy chấp nhận giới đức, Cha sẽ được hạnh phúc. 289. Tôi quy y Phật Đà, Quy y Pháp và Tăng, Tôi chấp nhận Giới Luật, Tôi sẽ được hạnh phúc. 290. Lúc trước ta chỉ là, Bà con của Phạm Thiên, Nay ta thật chính là, Một Vị Bà La Môn, Ta chứng đạt Ba minh, Ðược an toàn yên ổn, Ba Vệ đà chứng ngộ, Ta tắm rửa thật sạch. Và Vị Bà La Môn sau khi thọ quy y và các giới, xin xuất gia và chứng quả A La Hán. Nghĩ đến sự chứng quả của mình, Vị này nói lên những câu kệ cuối cùng để tỏ lộ sung sướng của mình. ............
@TranDuong-kx6zl
@TranDuong-kx6zl Ай бұрын
🙏🙏🙏🙏🙏🙏🙏🙏🙏🙏🙏
@toasangtamhon
@toasangtamhon Ай бұрын
Có phụ đề đấy các bạn chọn CC -> click giữ -> nó hiện ra 1 list ngôn ngữ -> English auto Chúc các bạn hạnh phúc khi xem video với phiên bản tiếng anh nó rất mindful. ❤❤❤❤
@orasamaokhamphio1020
@orasamaokhamphio1020 Ай бұрын
🙏🙏🙏
@PJIN8897
@PJIN8897 Ай бұрын
🪷🪷🪷🪷🪷🪷🪷
@LanNguyen-ne9vx
@LanNguyen-ne9vx Ай бұрын
A Di Da Phat 🙏🙏🙏
@omilo3817
@omilo3817 Ай бұрын
Nhờ những câu nói của thầy mà mình giác ngộ được chân lý sống
@phuonguyenvo5345
@phuonguyenvo5345 Ай бұрын
mong có phụ đề để vừa nghe pháp vừa học tiếng anh thì tốt quá ạ
@toasangtamhon
@toasangtamhon Ай бұрын
Có phụ đề đấy bạn chọn CC -> click giữ -> nó hiện ra 1 list ngôn ngữ -> English auto
@user-qv1yo3qe1q
@user-qv1yo3qe1q Ай бұрын
Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật : Trưởng Lão Tăng Kệ - Kinh Tiểu Bộ - Khuddaka Nikàya - Chúng con thành tâm tri ân công đức của Thị Giả, Tôn Giả, Đại Trưởng Lão, Trưởng Lão, Hòa Thượng, Sư, Sư Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thượng Minh Hạ Châu, Ni Trưởng, Thượng Tọa, Ni Sư, Đại Đức, Sư Cô, Tỳ Kheo, Tỳ kheo Ariyasilo, Tỳ Kheo Ni, Sa Di, Sa Di Ni, Tu Nữ, Tăng Đoàn, Tinh Xá, Phật Tử, Tứ Chúng,…… Của Phật Giáo Nam Tông, Theravada, Bắc Tông : ( đoạn 24 ) : Chương II - Hai Kệ - Phẩm Bốn : Ðảnh Lễ Ðức Thế Tôn Bậc A La Hán Chánh Ðẳng Giác : 157 / Tôn Giả Kappata - Kura ( Thera. 25 ) : Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh tại Sàvatthi, trong tình cảnh nghèo nàn, Ngài chỉ biết tự nuôi sống, bằng cách mặc đồ rách rưới, bát ăn xin cầm tay, đi xin gạo cơm. Vì vậy Ngài được tên là Kappatakura ( rách và gạo ). Khi lớn lên, Ngài nuôi sống bằng cách bán cỏ. Một hôm, đang cắt cỏ trong rừng, Ngài gặp một Vị Trưởng Lão, Ngài đảnh lễ, ngồi xuống nghe pháp. Ngài khởi lòng tin, từ bỏ nếp sống cũ, xuất gia, cất đồ rách rưới vào một chỗ. Khi Ngài cảm thấy nhàm chán với đời sống mới, Ngài đi đến nhìn đồ rách rưới ấy, tâm Ngài trở thành bất an. Làm như vậy, bảy lần Ngài rời khỏi chúng Tăng. Các Tỷ Kheo báo cáo lên sự việc này. Một hôm, khi Ngài là một Tỷ Kheo đang ngồi giữa chúng Tăng tại giảng đường, Bậc Ðạo Sư giáo giới Ngài với những bài kệ như sau : Ðây là đồ rách rưới, Của Kappata - Kura, Y áo đang phủ đắp, Thật là quá nặng nề, Trong bình bát bất tử, Ðược đựng đầy Chánh pháp, Nhưng nó không thực hành, Con đường hành thiền định. Hỡi này Kappata, Chớ lắc qua lắc lại, Chớ khiến ta phải đánh, Các tiếng vào tai ông, Hỡi này Kappata, Chớ làm kẻ si mê, Ngồi lắc qua lắc lại, Giữa Tăng chúng hội họp. Bị Đức Phật quở trách mạnh mẽ, Ngài dao động mạnh, phát triển thiền quá, không bao lâu chứng quả A La Hán. Rồi Ngài lập lại các bài kệ đã khích lệ Ngài tu hành và những bài kệ này trở thành những lời tuyên bố chánh trí của Ngài. Chương II - Hai Kệ - Phẩm Năm : Ðảnh Lễ Ðức Thế Tôn Bậc A La Hán Chánh Ðẳng Giác : 158 / Tôn Giả Kumàra - Kassapa ( Thera. 26 ) - Đệ Nhất Thuyết Pháp Lanh Lợi : Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh ở Ràjagaha ( Vương Xá ), Mẹ Ngài là con một vị chức sắc, Mẹ Ngài không được Cha Mẹ bằng lòng cho xuất gia khi còn là thiếu nữ, lập gia đình, được chồng bằng lòng cho xuất gia, nhưng bà không biết là đang có thai. Khi các Tỷ Kheo Ni thấy hiện trạng này, liền đến hỏi ý kiến Devadatta ( Ðề Bà Đạt Đa ), Vị này cho Mẹ Ngài là Tỷ Kheo Ni bất chánh. Các Tỷ Kheo Ni tới hỏi ý kiến Bậc Ðạo Sư, Bậc Ðạo Sư giao việc này cho Tôn Giả Upàli giải quyết. Upàli cho mời một số Vị cư sĩ ở Sàvatthi, gồm có nữ cư sĩ Visàkhà, và giữa hội nghị, có sự có mặt của Vua, Tôn Giả Upàli tuyên bố Vị Tỷ Kheo Ni đã có thai trước khi xuất gia, và Bậc Ðạo Sư đã chấp nhận sự kiện này. Mẹ Ngài nuôi dưỡng đứa con tại ngôi tịnh xá, đứa con như bức tượng bằng vàng, và Vua nuôi dưỡng đứa trẻ và Ngài được đưa đến cho Bậc Ðạo Sư xuất gia. Vì Ngài xuất gia khi còn thiếu niên, Ngài được gọi là Kumàra - Kassapa, dầu cho khi Ngài đã lớn. Trong khi Ngài tu tập thiền quán, học lời Phật dạy, Ngài ở tại rừng Andha. Rồi một Thiên Nhân, đã chứng quả Bất Lai, đã được làm Ðại Phạm Thiên ở Tịnh Cư Thiên, muốn chỉ cho Kumàra - Kassapa phương pháp chứng được đạo quả. Vị Thiên Nhân đến tại rừng Andha và hỏi Ngài mười lăm câu hỏi mà chỉ có Bậc Ðạo Sư mới có thể trả lời. Ngài hỏi Đức Phật các câu hỏi ấy và học thuộc lòng các câu Đức Phật trả lời, phát triển quán, chứng quả A La Hán. Ðược Bậc Ðạo Sư ấn chứng cho là “ Vị thuyết pháp lanh lợi đệ nhất “, Ngài nhớ lại quá trình tu hành của mình và dưới hình thức tán thán Ba ngôi báu, Ngài nói lên chánh trí của mình : Ôi Phật Đà, ôi Pháp ! Ôi Ðạo Sư thành tựu ! Ở đây, vị đệ tử, Chứng đạt Chánh pháp này. Trải qua vô lượng kiếp, Ta tác thành có thân, Thân này thân cuối cùng, Thân này hành trì xong, Trên con đường sống chết, Nay không còn tái sanh. 159 / Tôn Giả Dhammapàla ( Thera. 26 ) : Trong thời Đức Phật hiện tại, khi Bậc Ðạo Sư qua đời, Ngài sanh ở Avanti con một Bà La Môn, được đặt tên là Dhammapàla. Khi Ngài đi từ Takkasilà về, học hành đã xong, Ngài thấy một Vị Trưởng Lão ngồi một mình trong thảo am, được Vị ấy thuyết pháp, Ngài khởi lòng tin, xuất gia và chứng được sáu thắng trí. Trong khi Ngài suy tư hoan hỷ trong vị ngọt giải thoát, hai Sa Di leo cây hái trái, bị cây gẫy ngã xuống. Thấy vậy Ngài lấy tay ôm đỡ hai người Sa Di, với thần thông đặt hai Vị ấy xuống đất, không có bị thương. Và Ngài dạy hai Vị ấy với những bài kệ : Ai Tỷ Kheo trẻ tuổi Chú tâm hành lời Phật, Tỉnh thức giữa người ngủ, Vị ấy, đời không uổng. Do vậy, bậc Hiền trí, Nhớ đến lời Phật dạy, Chuyên tu tín và giới, Hoan hỷ thấy Chánh pháp. 160 / Tôn Giả Brahmàlì ( Thera. 26 ) : Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh ở nước Kosala, con một Bà La Môn, được đặt tên là Brahmàlì. Khi đến tuổi trưởng thành, thúc đẩy bởi những điều kiện chín muồi, do giao hảo với bạn lành, Ngài xuất gia, tu tập thiền định trong một ngôi rừng, nhờ trí tuệ chín muồi, Ngài phát triển thiền quán, chứng được sáu thắng trí. Sống trong vị an lạc giải thoát, Vị Trưởng Lão rất thuần thục pháp tinh tấn, một hôm sống ở trong rừng Ngài nói lên những bài kệ này, thay mặt cho các Tỷ Kheo ở trong rừng, những bài kệ tán thán hạnh tinh tấn : Với những ai, các căn, Ðã đi đến tịnh chỉ, Như được khéo điều phục, Bởi đánh xe điều ngự, Kiêu mạn được đoạn tận, Không còn có lậu hoặc, Chư Thiên rất ái mộ Những vị có hạnh ấy. Với chính ta, các căn, Ðã đi đến tịnh chỉ, Như được khéo điều phục, Bởi đánh xe điều ngự, Kiêu mạn được đoạn tận, Không còn có lậu hoặc, Chư Thiên ái mộ ta, Ta thành tựu hạnh ấy. 161 / Tôn Giả Mogharàjam ( Thera. 27 ) : Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh trong một gia đình Bà La Môn, tên là Mogharàjam. Vị ấy tu học dưới sự lãnh đạo của Bà La Môn Bàvariya. Cảm thấy lo âu sợ hãi, Ngài trở thành một Vị tu khổ hạnh. Ngài là một trong mười sáu vị, trong ấy có Ajita và những vị khác, đã được Bàvariya đưa đến yết kiến Bậc Ðạo Sư. Sau khi Mogharàjam hỏi và được trả lời, Ngài chứng quả A La Hán. Sau đó, Ngài được biết đến vì Ngài mặc áo thô sơ do các nhà lữ hành, các thợ may, các thợ nhuộm quăng bỏ hai bên đường. Do vậy, Bậc Ðạo Sư ấn chứng cho Ngài là “ người đệ tử đệ nhất mặc áo thô sơ “. Như vậy Ngài thực hiện chí nguyện từ trước của Ngài. Một thời khác, do thiếu sự săn sóc chu đáo và do nghiệp đời trước, các mụt ghẻ lở xuất hiện và sanh ra nhiều trên thân của Ngài, nghĩ rằng chỗ trú ẩn của Ngài đã bị ô nhiễm, Ngài trải chỗ nằm của Ngài trên một thửa ruộng ở Magadha, và dầu lúc ấy thuộc mùa đông, Ngài vẫn ở tại đấy. Một hôm, hầu hạ Bậc Ðạo Sư và đảnh lễ Ngài, Bậc Ðạo Sư hỏi Ngài với những bài kệ như sau : Hỡi Mogharàja ! Sống với da thô độc, Sống với tâm hiền thiện, Luôn luôn hành thiền định, Trong những đêm đông giá Thầy là một Tỷ Kheo, Vậy Thầy sống thế nào Thầy sẽ làm những gì ? Ðược hỏi vậy, Ngài trả lời và giải thích cho Bậc Ðạo Sư : Con có được nghe rằng : Ở nước Magadha, Ðất nước giàu thịnh vượng, Toàn dân sống đầy đủ, Những am lợp bằng rơm, Còn tốt đẹp hơn nhiều, Hơn đời sống an lạc, Của mọi người dân khác. ......
@user-qv1yo3qe1q
@user-qv1yo3qe1q Ай бұрын
Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật : Trưởng Lão Tăng Kệ - Kinh Tiểu Bộ - Khuddaka Nikàya - Chúng con thành tâm tri ân công đức của Thị Giả, Tôn Giả, Đại Trưởng Lão, Trưởng Lão, Hòa Thượng, Sư, Sư Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thượng Minh Hạ Châu, Ni Trưởng, Thượng Tọa, Ni Sư, Đại Đức, Sư Cô, Tỳ Kheo, Tỳ kheo Ariyasilo, Tỳ Kheo Ni, Sa Di, Sa Di Ni, Tu Nữ, Tăng Đoàn, Tinh Xá, Phật Tử, Tứ Chúng,…… Của Phật Giáo Nam Tông, Theravada, Bắc Tông : ( đoạn 23 ) : Chương II - Hai Kệ - Phẩm Bốn : Ðảnh Lễ Ðức Thế Tôn Bậc A La Hán Chánh Ðẳng Giác : 150 / Tôn Giả Upavàna ( Thera. 24 ) : Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh trong một gia đình Bà La Môn ở Sàvatthi, được đặt tên là Upavàna. Thấy được uy nghi Đức Phật khi Kỳ Viên được dâng cúng. Ngài xuất gia, phát triển thiền quán, chứng được sáu thắng trí. Rồi Upavàna trở thành Vị Thị Giả Đức Phật. Bấy giờ, Thế Tôn bị đau nhức mỏi, một đệ tử Cư Sĩ của Ngài tên là Devahita sống ở Sàvatthi cúng dường bốn vật dụng cần thiết cho Ngài. Khi Upavàna đến với y và bát, Devahita biết Ngài cần dùng một vật đặc biệt nên hỏi. Ngài trả lời với bài kệ như sau : Bậc ứng Cúng, Thiện Thệ, Ẩn sĩ bị phong thấp, Nếu ông có nước nóng, Hãy cúng dường ẩn sĩ. Cúng dường người đáng cúng, Cung kính người đáng kính, Tôn trọng người đáng trọng, Ta mong muốn vị ấy, Ðược vật cúng mang đến. Rồi Vị Bà La Môn dâng cúng nước nóng và thuốc trị bệnh. Nhờ vậy, bệnh của Thế Tôn thuyên giảm và Thế Tôn tỏ lời cảm ơn. 151 / Tôn Giả Isidinna ( Thera. 24 ) : Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh ở xứ Sunàparanta, trong gia đình một vị chức sắc, được đặt tên là Isidinna. Khi lớn lên, Ngài chứng kiến Thế Tôn hiện thần thông song hành khi ngôi nhà bằng trầm hương được dâng cúng, với tấm hân hoan đối với Bậc Ðạo Sư, Ngài nghe pháp, trở thành bậc Dự Lưu. Dầu còn sống đời sống thế gian, một Thiên Nhân khích lệ Ngài như sau : Ta thấy người cư sĩ, Trì pháp với lời nói, Các dục là vô thường, Họ ưa thích ái luyến, Châu báu và vòng nhẫn, Họ đón chờ vợ con. Thật sự họ không biết, Pháp như thật là gì ? Dầu họ có tuyên bố : “ Các dục là vô thường ! “ Họ không có sức mạnh, Ðể cắt đứt tham ái, Do vậy, họ luyến tiếc, Vợ con và tài sản. Khi người Cư Sĩ nghe vậy, Ngài cảm thấy xúc động, xuất gia, không bao lâu chứng quả A La Hán. Nói lên chánh trí của Ngài, Ngài lập lại những bài kệ trên. 152 / Tôn Giả Sambula - Kaccàna ( Thera. 24 ) : Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh trong nước Magadha ( Ma Kiệt Đà ), con một thị dân thuộc dòng họ Kaccàna, tên là Sambula, Ngài được biết với tên Sambula - Kaccàna. Sau khi nghe Bậc Ðạo Sư thuyết pháp, Ngài xuất gia rồi đi đến miền phụ cận núi Hy Mã Lạp Sơn, tu học thiền quán trong một cái hang tên là Bheravàyanà ( đường đi dễ sợ ). Một hôm, một cơn giông tố trái mùa nổi lên, mây ùn ùn nổi lên trên hư không, sấm sét vang động, chớp sáng chói lòa, trời bắt đầu mưa đổ ào ào xuống. Các loài vật như gấu, dã can, trâu, voi đều la hét run sợ. Nhưng Vị Trưởng Lão phát triển thiền quán, không kể gì đến mạng sống của mình, không để ý đến tiếng động vang, nhưng cơn động làm cho dịu khí trời, tâm Ngài được tịnh chỉ, Ngài triển khai thiền quán, chứng được quả A La Hán với sáu thắng trí. Nghĩ đến thành quả đạt được, Ngài cảm thấy phấn khởi, Ngài nói lên chánh trí của Ngài, với những bài kệ : Mưa ào ào đổ xuống, Mưa ầm ầm vang động, Ta sống chỉ một mình, Trong hang động kinh hoàng, Dầu ta sống một mình, Trong hang động kinh hoàng, Ta không hoảng, sợ hãi, Không lông tóc dựng ngược Pháp nhĩ ta là vậy, Nên dầu sống một mình, Trong hang động kinh hoàng, Ta không hoảng, sợ hãi, Không lông tóc dựng ngược. 153 / Tôn Giả Khitaka ( Thera. 25 ) : Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh trong nước Kosala, con một Vị Bà La Môn, được đặt tên là Khitaka. Ngài nghe Bậc Ðạo Sư thuyết pháp, xuất gia, sống trong rừng, không bao lâu chứng quả A La Hán. Hưởng được lạc giải thoát Niết Bàn, cảm thấy phấn khởi tinh cần, Ngài đi đến các Tỷ Kheo sống trong rừng để khích lệ, làm các vị ấy phấn khởi. Ngài nói những bài kệ này, trước hết vì hạnh phúc cho các Vị ấy, sau nói lên chánh trí của Ngài : Tâm ái như tảng đá Ðứng vững, không dao động, Hỡi những vật khả ái, Tâm không có tham ái, Ðối vật làm dao động, Tâm không có dao động, Tâm ai tu tập vậy, Từ đâu, khổ sẽ đến. Tâm ta như tảng đá Ðứng vững, không dao động, Ðối những vật khả ái, Tâm không có tham ái, Ðối vật làm dao động, Tâm không có dao động, Tâm ta tu tập vậy, Từ đâu, khổ đến ta. 154 / Tôn Giả Sona - Potiriyaputta ( Thera. 25 ) : Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh ở Kapilavatthu ( Ca Tỳ La Vệ ), con của điền chủ Potiriya, được đặt tên là Sona. Khi đến tuổi trưởng thành, Ngài trở thành tướng chỉ huy quân lực của Bhaddiya, một Vị Vua Sakka. Nay Bhaddiya đã xuất gia, và Ngài theo gương Bhaddiya cũng xuất gia, nhưng Ngài biếng nhác, không có tu thiền định. Thế Tôn ở tại vườn xoài Anupiya, chiếu hào quang đến Ngài, khích lệ Ngài tu tập chánh niệm, với những bài kệ như sau : Thầy chớ có ngủ nữa, Với đêm, sao vòng hoa, Ðêm này, người có trí, Thức dậy, không có ngủ. Nghe lời này, Ngài cảm thấy dao động mạnh, thấy rõ những khuyết điểm của Ngài, Ngài ngồi thiền ngoài trời, tu tập thiền quán, Ngài nói lên bài kệ : Khi con voi tấn công, Rơi từ lưng voi xuống, Trên chiến trường ta chết, Tốt hơn sống bại trận. Nói vậy, Ngài triển khai thiền quán, không bao lâu chứng quả A La Hán. Rồi Ngài lập lại bài kệ của Bậc Ðạo Sư, và với bài kệ của Ngài, Ngài nói lên chánh trí của mình. 155 / Tôn Giả Nisabha ( Thera. 25 ) : Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh trong xứ các dân tộc Koliya, trong một gia đình dân tộc, được đặt tên là Nisabha. Khi đến tuổi trưởng thành, Ngài chứng kiến sức mạnh uy nghi đức độ của Đức Phật trong trận chiến giữa dân tộc Sakka và dân tộc Koliya, khởi lòng tin, ngài xuất gia, chứng quả A La Hán. Thấy một Tỷ Kheo đồng Phạm hạnh dùng thời gian của mình rất là uổng phí, nên Ngài dùng những bài kệ này để khuyên răn Vị ấy, và nói lên Ngài thực hành những điều Ngài nói : Sau khi đã từ bỏ Năm loại dục trưởng dưỡng, Những vật thật khả ái, Khiến tâm ý thích thú, Với lòng tin, xuất gia, Chấm dứt sự khổ đau. Ta không hoan hỷ chết, Ta không hoan hỷ sống, Ta chờ đợi thời đến, Tỉnh giác và chánh niệm. 156 / Tôn Giả Usabha ( Thera. 25 ) : Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh ở Kapilavatthu ( Ca Tỳ La Vệ ), trong gia đình một Vị Vua Sakka, được đặt tên là Usabha. Khi Đức Phật về thăm bà con, Ngài thấy sức mạnh và sự sáng suốt của Đức Phật, khởi lòng tin và xuất gia, nhưng Ngài không làm các bổn phận của người tu hành, cả ngày giao du nhiều người, ban đêm thời lo ngủ. Một hôm, với tâm tư hôn trầm phóng dật, Ngài nằm ngủ, Ngài mộng thấy Ngài cạo đầu, đắp áo cà sa, ngồi trên lưng voi đi vào thành để khất thực; tại đấy, thấy quần chúng tụ tập đông đảo, Ngài cảm thấy xấu hổ và xuống voi không ngồi nữa. Ngài thức dậy, suy nghĩ : “ Vì sao, đây là cơn mộng hôn trầm và phóng dật, ta thấy ta nằm ngủ với tâm ưu não “. Ngài an trú thiền quán, không bao lâu chứng quả A La Hán. Như vậy lấy cơn mộng làm đề tài khích lệ, Ngài dùng những bài kệ để nói lên chánh trí của Ngài : Vai đắp phủ tấm y, Giống như màu bông xoài, Ngồi trên lưng con voi, Ta vào làng khất thực. Từ lưng voi leo xuống, Ta cảm nhận xúc động, Trước ta rất ngạo mạn, Nay ta thật lắng dịu, Ta đã chứng đạt được, Các lậu hoặc đoạn diệt. ......
@user-qv1yo3qe1q
@user-qv1yo3qe1q Ай бұрын
Trưởng Lão Tăng Kệ - Kinh Tiểu Bộ - Khuddaka Nikàya - Chúng con thành tâm tri ân công đức của Thị Giả, Tôn Giả, Đại Trưởng Lão, Trưởng Lão, Hòa Thượng, Sư, Sư Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thượng Minh Hạ Châu, Ni Trưởng, Thượng Tọa, Ni Sư, Đại Đức, Sư Cô, Tỳ Kheo, Tỳ kheo Ariyasilo, Tỳ Kheo Ni, Sa Di, Sa Di Ni, Tu Nữ, Tăng Đoàn, Tinh Xá, Phật Tử, Tứ Chúng,…… Của Phật Giáo Nam Tông, Theravada, Bắc Tông : ( đoạn 21 ) : Chương II - Hai Kệ - Phẩm Ba : Ðảnh Lễ Ðức Thế Tôn Bậc A La Hán Chánh Ðẳng Giác : 138 / Tôn Giả Uttara ( Thera. 22 ) : Trong thời Đức Phật tại thế, Ngài sanh ở Sàketa, trong một gia đình Bà La Môn, được đặt tên là Uttara. Bị cảm hóa bởi thần thông song hành tại cây Gandamba ở Sàvatthi, Ngài được khích lệ xuất gia, khi Bậc Ðạo Sư ở Sàketa thuyết pháp tại vườn Kàlaka. Ði với Bậc Ðạo Sư đến Ràjagaha ( Vương Xá ), Ngài phát triển thiền quán, chứng được sáu thắng trí. Trở về Sàvatthi để hầu hạ Đức Phật, các Tỷ Kheo hỏi Ngài : “ Thưa Hiền Giả, Hiền Giả đã thành tựu những gì trong sự nghiệp giải thoát ? “. Ngài nói lên chánh trí của Ngài với bài kệ như sau : Ta liễu tri các uẩn, Ta khéo nhổ tham ái, Ta tu tập giác chi, Ta đạt lậu hoặc diệt. Do liễu tri các uẩn, Thoát ly kẻ gài lưới, Tu tập giác chi xong, Ta sẽ nhập Niết Bàn, Các lậu hoặc tận diệt. 139 / Tôn Giả Bhaddaji ( Thera. 22 ) : Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh ở Bhaddiya ( tại Avantì phía Ðông Magadha ), con một nghị sĩ giàu có đến tám trăm triệu, Ngài được đặt tên là Bhàddiya và được nuôi lớn trong sự nuông chiều sang trọng, giống như Vị Bố tát trong đời sống cuối cùng của Ngài. Tập sớ kể câu chuyện của Ngài chứng quả A La Hán khi nghe Đức Phật thuyết pháp lần đầu tiên, chính Đức Phật đích thân đến tìm Ngài. Ngài đi theo Bậc Ðạo Sư với hàng tùy tùng, sau một tuần đến tại Kotigàma, và đi lánh đến bờ sông Hằng, Ngài nhập thiền định. Ngài chỉ xuất định, khi Đức Phật đến gần và không vâng lời các Vị Trưởng Lão đi trước. Ðể xác minh quả chứng vô thượng của Ngài, Đức Phật mời Ngài lên chiếc phà của Ngài và yêu cầu Ngài hiện thần thông. Bhaddiya làm nổi lên cung điện bị chìm, khi Ngài trú tại đấy, trong thời Ngài là Vua Panàda. Câu chuyện này được kể trong chuyện Jàtaka Mahàpanàda. Ngài diễn tả lâu đài bằng vàng, trong ấy Ngài đã sống trong một thời gian. Rồi Ngài nói về Ngài khi tự ngã được đoạn diệt, như là thuộc một người khác : Pa Nà Đa là tên, Của vị hoàng đế ấy, Với trụ lễ bằng vàng, Ngang có mười sáu nhà, Tính về lượng bề cao, Cao hơn một ngàn lần. Có đến ngàn tam cấp, Với trăm nóc hình tròn, Trang hoàng với cờ xí, Với ngọc báu chói sáng, Ở đấy, Càn that bà, Các tiên nữ hát múa, Con số lên sáu ngàn, Với tổng số bảy đoàn. 140 / Tôn Giả Sobhita ( Thera. 22 ) : Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình Bà La Môn, được đặt tên là Sobhita. Sau khi được nghe Bậc Ðạo Sư thuyết pháp, Ngài xuất gia, chứng được sáu thắng trí, Ngài thực hành nhớ đến các đời sống quá khứ, thành tựu túc mạng thông, được Đức Phật xác nhận là vị nhớ đến đời sống quá khứ đệ nhất. Cảm thấy phấn khởi trong quả chứng của mình, Ngài nói lên những bài kệ : Tỷ Kheo giữ chánh niệm, Với trí tuệ tinh cần, Một đêm, ta nhớ đến, Có đến năm trăm kiếp. Ta tu Bốn niệm xứ, Bảy giác chi, Tám thánh ( đạo ), Một đêm, ta nhớ đến, Có đến năm trăm kiếp. 141 / Tôn Giả Valliya ( Thera. 22 ) : Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh ở Vesàli, trong một gia đình Bà La Môn, được đặt tên là Kanhamitta. Khi đến tuổi trưởng thành, Ngài thấy uy nghi đức độ của Đức Phật khi Đức Phật đến Vesàli. Khởi lòng tin, Ngài xuất gia với sự hướng dẫn của Tôn Giả Mahà Kassapa ( Ðại Ca Diếp ). Với trí tuệ chậm chạp và mới bắt đầu tinh tấn, Ngài phải dựa vào trí tuệ của các đồng Phạm hạnh đến nỗi Ngài được gọi là Valliya ( loài cây leo ), vì loài cây này không thể tự lớn được, nếu không dựa vào một vật gì. Một hôm, Ngài đi nghe Trưởng Lão Venudatta giảng, Ngài trở thành sáng suốt, trí tuệ chín muồi, Ngài hỏi Vị Thầy của Ngài với những bài kệ : Những bổn phận cần làm, Với tinh cần tinh tấn, Những bổn phận cần làm Với người muốn giác ngộ. Con sẽ làm tất cả, Con không có thối thất, Hãy xem sự tinh tấn, Sự nỗ lực của con. Ngài hãy nói cho con, Con đường nhập bất tử, Với yên lặng thiền tư, Con đạt Thánh yên lặng, Như dòng sông Hằng Hà, Nhập sâu vào biển cả. 142 / Tôn Giả Vitàsoka ( Thera. 22 ) : Trong thời Đức Phật hiện tại, vào năm thứ 218, là em trai Vua Dhammàsoka ( A Dục ), được đặt tên là Vitàsoka. Ðến tuổi trưởng thành, Ngài thành tựu những đức tánh thích hợp với tuổi trẻ hoàng tộc. Rồi Ngài trở thành đệ tử của Trưởng Lão Giridatta và thông hiểu về Kinh tạng và Luận tạng A Tỳ Đàm. Một hôm, khi Ngài đang cắt tóc, Ngài lấy gương soi, thấy một vài sợi tóc bạc. Bị dao động mạnh, Ngài phát triển thiền quán, với sự nỗ lực cố gắng thiền định, khi Ngài đang ngồi, Ngài chứng quả Dự lưu, Ngài xuất gia dưới sự hướng dẫn của Giridatta, không bao lâu Ngài chứng quả A La Hán. Ngài tuyên bố chánh trí của Ngài với bài kệ : Hãy cạo tóc cho ta Người cạo tóc đã đến, Ta cầm lấy cái gương, Quan sát thân thể ta. Thân được thấy trống rỗng, Chìm tối trong đêm đen, Mọi vải quấn chặt đứt, Nay không còn tái sanh. 143 / Tôn Giả Punnamàsa ( Thera. 23 ) : Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình vị điền chủ. Khi sanh đứa con đầu tiên, Ngài xuất gia, sống gần một làng, Ngài tinh tấn tu hành cho đến khi Ngài chứng được sáu thắng trí. Ngài đi đến Sàvatthi đảnh lễ Bậc Ðạo Sư và ở tại một nghĩa địa. Rồi đứa con Ngài chết và vợ Ngài không muốn tài sản bị Vua tịch thu, vì không có thừa tự nên đi đến Ngài với một số đông tùy tùng và yêu cầu Ngài từ bỏ đời sống xuất gia. Muốn nói lên sự giải thoát thế tục và quả chứng của Ngài, Ngài đứng trên hư không, nói lên những bài kệ : Từ bỏ năm triền cái, Ðạt an ổn khỏi ách, Nắm giữ gương Chánh pháp, Biết và thấy tự ngã. Ta quán sát thân này, Từ trong cho đến ngoài, Thân được thấy trống không, Trong thân cả ngoài thân. ......
@user-qv1yo3qe1q
@user-qv1yo3qe1q Ай бұрын
Trưởng Lão Tăng Kệ - Kinh Tiểu Bộ - Khuddaka Nikàya - Chúng con thành tâm tri ân công đức của Thị Giả, Tôn Giả, Đại Trưởng Lão, Trưởng Lão, Hòa Thượng, Sư, Sư Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thượng Minh Hạ Châu, Ni Trưởng, Thượng Tọa, Ni Sư, Đại Đức, Sư Cô, Tỳ Kheo, Tỳ kheo Ariyasilo, Tỳ Kheo Ni, Sa Di, Sa Di Ni, Tu Nữ, Tăng Đoàn, Tinh Xá, Phật Tử, Tứ Chúng,…… Của Phật Giáo Nam Tông, Theravada, Bắc Tông : ( đoạn 20 ) : Chương II - Hai Kệ - Phẩm Hai : Ðảnh Lễ Ðức Thế Tôn Bậc A La Hán Chánh Ðẳng Giác : 134 / Tôn Giả Tissa ( Thera. 21 ) : Trong thời kỳ Đức Phật hiện tại, Ngài sanh ở Ràjagaha ( Vương Xá ), trong một gia đình Bà La Môn, tên là Tissa và trở thành một chuyên viên về ba tập Vệ đà. Giảng bùa chú cho hơn năm trăm Bà La Môn trẻ, và danh tiếng đồn vang. Khi Thế Tôn đến Ràjagaha ( Vương Xá ), Tissa thấy uy nghi đức độ của Đức Phật, khởi lòng tin, xuất gia, về sau chứng quả A La Hán, do phát triển thiền quán. Nhờ vậy, Ngài trở thành có danh tiếng nữa. Có một số Tỷ Kheo thiên về thế lợi, thấy Ngài có được trọng vọng, nên không thể chịu nổi. Ngài biết như vậy, nói lên sự nguy hiểm của danh vọng và sự thoát ly của Ngài đối với danh vọng, ngang qua những bài kệ này : Vị trọc đầu, đắp y, Ðược nhiều kẻ thù oán Khi nhận đồ ăn uống, Vải mặc và chỗ nằm. Biết nguy hiểm như vậy, Biết có sợ hãi lớn, Trong cung kính cúng dường; Vị Tỷ Kheo xuất gia, Nhận ít, không tham đắm, Luôn luôn giữ chánh niệm. 135 / Tôn Giả Kimbila ( Thera. 21 ) : Ngài gặp Đức Phật, xúc động, xuất gia đã được nói trong chương một, với câu kệ : “ Như bị cảm hóa bởi sức mạnh “. Ở đây, Vị Trưởng Lão sống thân thiết với các bạn, các Tôn Giả Anuruddha, Bhaddiya. Trong vườn trúc phía Ðông, Các Thích Tử thân hữu, Từ bỏ những tài sản, Không phải là ít oi, Vui thích với những gì, Nhận được từ bình bát. Siêng, tinh cần, tinh tấn, Thường kiên trì hăng hái, Ưa thích lạc pháp vị, Từ bỏ lạc thế gian. 136 / Tôn Giả Nanda ( Thera. 21 ) : Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh ở Kapilavatthu, con Vua Suddhodana ( Tịnh Phạn ) và bà Mahàpajàpati, vì đem lại hoan hỷ cho bà con nên được gọi là Nanda. Khi đến tuổi trưởng thành, Bậc Ðạo Sư chuyển bánh xe pháp đi đến Kapilavatthu, với lòng từ mẫn độ chúng sanh. Nhân có dịp trời mưa, Thế Tôn kể chuyện tiền thân Vessantara. Trong ngày thứ hai, với câu kệ : “ Hãy đứng dậy ! “. Thế Tôn giúp cho Phụ thân chứng quả Dự lưu. Với câu kệ : “ Hãy sống theo Phạm hạnh “. Thế Tôn giúp Bà Mahàpajàpati cũng chứng quả Dự lưu, rồi Thế Tôn giúp Phụ thân chứng thêm quả Nhất lai. Ngày thứ ba khi đi khất thực tại phòng đăng quang, lúc mọi người đang chúc mừng Hoàng Tử Nanda trong ngày lễ đám cưới, Bậc Ðạo Sư đưa bình bát, đi theo Bậc Ðạo Sư đến tinh xá và Đức Phật độ cho Nanda xuất gia, dầu Ngài không bằng lòng. Từ lúc ấy, biết được Nanda không ưa thích đời sống xuất gia, Bậc Ðạo Sư tiếp tục giáo hóa cho đến khi Nanda, nhờ thiền định, phát triển thiền quán và đạt được quả A La Hán. Về sau, hưởng thọ lạc giải thoát, Ngài nói : “ Ôi tuyệt diệu thay pháp môn Phật dạy. Nhờ vậy ta thoát khỏi sa lầy vào đầm tái sanh, đứng được trên bãi cát Niết Bàn “. Phấn khởi với suy nghĩ này, Ngài nói lên những bài kệ : Không như lý tác ý, Ta chuyên trang sức ngoài, Ta thô tháo dao động, Say đắm trong tham dục. Với phương tiện thiện xảo, Ta, bà con mặt trời, Ðược hướng về chánh lý, Làm ta thoát sanh hữu. Thế Tôn, biết được quả chứng tự tu, tự luyện của Ngài, tuyên bố Ngài là “ bậc tự chế ngự đệ nhất “ trong các đệ tử của Thế Tôn. 137 / Tôn Giả Sirimat ( Thera. 21 ) : Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh ở Sàvatthi ( Xá Vệ ), trong nhà một thị dân, được đặt tên là Sirimat, vì gia đình Ngài được luôn luôn may mắn, và thành công. Em trai của Ngài, tăng trưởng tài sản được đặt tên là Sirivaddha ( tăng trưởng sự may mắn ). Cả hai thấy được uy nghi đức độ của Đức Phật khi Kỳ Viên được dâng cúng Đức Phật, khởi lòng tin xuất gia, Sirivaddha dầu chưa chứng được pháp thượng nhân, nhưng được hàng cư sĩ, hàng xuất gia tôn kính hoan nghênh. Nhưng Sirimat, vì nghiệp không được tốt đẹp nên ít được cung kính, tuy vậy, luôn luôn tu tập về chỉ và quán, ngài chứng được sáu thắng trí. Các Tỷ Kheo tầm thường và các Sa Di không biết Ngài chứng được Thánh quả, tiếp tục khinh thường Ngài và cung kính em của Ngài. Rồi Ngài đọc lên bài kệ, nói lên sự sai lầm của họ : Người khác tán thán nó, Kẻ tự ngã chưa định, Người khác khen sai lầm, Kẻ tự ngã chưa định. Người khác chỉ trích nó, Kẻ tự ngã đã định, Người khác chê sai lầm, Kẻ tự ngã khéo định. Rồi Sirivaddha nghe bài kệ, tâm sanh dao động, phát triển thiền quán, không bao lâu đạt được chơn giải thoát; và những ai chỉ trích Bậc Trưởng Lão, chúng tôi xin lỗi Ngài. ......
@transugar7808
@transugar7808 Ай бұрын
con quá mệt rồi cố gắng giử thai có thai không biết làm nặng bị đông thai vô nhập viện nó cho thuốc đặt nó không nói rỏ con đặt lộn hậu môn máy ngày luôn không có tát dụng gì cho em bé con ghét con quá trời,,, lúc nào con cũng hậu đậu hết.. chỉ mong con của con có tim thai khoẻ mạnh bám chặt vô tử cung đủ ngày đủ tháng sanh ra đời thôi chỉ nguyện cầu như vậy thôi… con bị trầm cảm quá … làm gì cũng sai hết là sao? tại sao con ngu như vị
@linhha684
@linhha684 Ай бұрын
Nam mô A Di Đà Phật
@lananhtran8606
@lananhtran8606 Ай бұрын
@anhtranduc3638
@anhtranduc3638 Ай бұрын
Nam Mô A Di Đà Phật
@thanhtran-ld2mx
@thanhtran-ld2mx 2 ай бұрын
Thầy ơi con có người bạn mỹ họ muốn tìm hiểu về đạo Phật con muốn kiếm những bài thuyết giang về đạo Phật bạn hỏi con nhiều về Đức Phật nhưng con giỏi tiếng Anh nên kg giải thích cho bạn hiểu bạn muốn theo đạo Phật
@kimlienle3797
@kimlienle3797 2 ай бұрын
Nam mô Bổn sư Thích ca mâu ni Phật
@gamngothi5053
@gamngothi5053 2 ай бұрын
Nammoadidaphat🙏🙏🙏
@PJIN8897
@PJIN8897 2 ай бұрын
🪷🪷🪷🪷🪷🪷🪷
@monster-uc5es
@monster-uc5es 2 ай бұрын
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Nam Mô Tam Bảo 🙏
@maianhvu9341
@maianhvu9341 2 ай бұрын
🙏 Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật