No video

Bản tin giảng lược kinh Pháp Cú - phần 1. ĐĐ. Thích Tâm Trường

  Рет қаралды 749

Chùa Hoằng Pháp - Việt Nam

Chùa Hoằng Pháp - Việt Nam

Күн бұрын

Nam mô bổ sư thích ca mâu ni Phật!
Kính thưa quý vị!
Thay mặt BBT bản tin Phật sự chùa Hoằng Pháp, xin gửi lời cầu chúc bình an đến tất cả quý Phật tử. Chúc quý vị thân tâm thường lạc và tinh tấn tu tập theo giáo pháp của Đức Như Lai.
Nam Mô A Di Đà Phật!
Website :
www.chuahoangp...
Facebook :
/ vietnamchuahoangphap
Mọi thông tin góp ý xin liên hệ: Chùa Hoằng Pháp
Địa chỉ: Chùa Hoằng Pháp Xã Tân Hiệp, Hóc Môn, Tp.HCM
Email: chuahoangphapvietnam@gmail.com

Пікірлер: 23
@diemdiem2442
@diemdiem2442 2 ай бұрын
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
@user-qv1yo3qe1q
@user-qv1yo3qe1q Ай бұрын
Phật Pháp và Cuộc Sống : ( đoạn 5 ) : 12 / Cầu nguyện và linh ứng có mâu thuẫn với nhân quả ? Nhân quả là giáo lý căn bản của Phật giáo. Tuy nhiên, thuyết Nhân quả của Phật giáo vô cùng sâu sắc, khác biệt rất nhiều so với khái niệm Nhân quả của các triết thuyết khác, đó chính là Nhân - duyên - quả. Từ nhân đến quả chịu sự chi phối mãnh liệt của các duyên ( nhân phụ ). Trong một tiến trình Nhân - duyên - quả, thì mỗi thành tố nhân, duyên, quả lại đóng vai trò nhân, duyên, quả cho các tiến trình Nhân - duyên - quả khác. Tất cả đều vận hành, hỗ trợ hay tiêu trừ lẫn nhau tạo thành một chuỗi tương tác trùng điệp, vô cùng vô tận, xuyên suốt quá khứ, hiện tại và vị lai. Chúng ta chỉ biết về những cấu trúc Nhân quả đơn tuyến ( nhãn tiền ), còn quy luật vận hành và tương tác của tiến trình Nhân - duyên - quả vốn đa tuyến, cực kỳ vi tế và sâu nhiệm, đến nỗi chỉ có trí tuệ của chư Phật, Bồ Tát mới biết hết. Tất cả chúng sinh đều bị chi phối bởi quy luật Nhân - duyên - quả. Biểu hiện cụ thể của mỗi phút giây đời sống này ( về biệt nghiệp - cá nhân cũng như cộng nghiệp - tập thể ) chính là trình hiện chân thật nhất của Nhân - duyên - quả. Chư Phật, Bồ Tát có thị hiện độ sinh cũng thuận hợp với quy luật này, không thể khác. Vậy sự cầu nguyện và linh ứng trong Phật giáo thỉnh thoảng vẫn xảy ra, có “ sai sai ” không ? Trước hết, sự cầu nguyện và linh ứng chỉ xảy ra với một số người, không phải là tất cả. Đang lúc nguy cấp hay bế tắc, chúng ta nhất tâm cầu nguyện để mong được sự trợ duyên. Người cầu nguyện phát khởi những niệm lành như kính tin Tam bảo mãnh liệt, tuyệt đối tin tưởng vào oai lực của chư Phật, nguyện làm những việc thiện lành v.v... Nhờ thiện tâm khởi lên đúng lúc mà thiện nghiệp được hình thành, cùng tương tác vào Nhân - duyên - quả đang tới gần, đang dần hiện hữu. Trong một số trường hợp người còn phước đức thì duyên mới tạo ra này đã chi phối mạnh mẽ làm cho quả xấu bị lệch hướng, họa lớn thành hại nhỏ, được cứu nguy trong gang tấc. Sự trợ duyên này nhiều người tin rằng đó là oai lực của chư Phật, Bồ Tát gia hộ. Kỳ thực thì năng lực và phương tiện độ sinh của chư Phật, Bồ Tát vốn không thể nghĩ bàn. Có khi nào chúng ta suy ngẫm rằng, có những việc không ai cầu nhưng các Ngài vẫn cứu ? Nên không thể dùng khả năng nhận thức phàm phu mà suy lường về việc cứu độ. Chúng ta chỉ có niềm tin về năng lực gia hộ và cứu độ của các Ngài ( Mười thần lực của Như Lai ) mà thôi, song nếu có thì đó vẫn là Tăng thượng duyên của tiến trình Nhân - duyên - quả, không hề có gì “ sai sai ” ở đây cả. Những chuyện như “ bé đi lạc, người nhà niệm Bồ Tát Quan Thế Âm thì tìm được bé ” ( và một số chuyện linh ứng khác ) là chuyện thật, người trong cuộc đã trải nghiệm và tin vào sự linh ứng là có thật, không ai có thể làm lay chuyển niềm tin của họ. Còn chúng ta, người ngoài cuộc hay người đã từng cầu mà không ứng nên chưa tin hoặc không tin là điều bình thường. Thành ra, người học Phật nếu quán chiếu sâu sắc về Nhân quả sẽ nghiệm ra rằng, được “ Bồ Tát cứu giúp ” hay do “ nghiệp duyên ” tuy hai mà một, vẫn không ngoài Nhân - duyên - quả. 13 / Ăn chay, nấu mặn có mắc tội không ? Mục đích của việc ăn chay để nâng cao sức khỏe, phòng tránh bệnh tật, nuôi dưỡng lòng từ bi và tránh xa sự sát sinh. Nên khi bạn ăn chay mà phải nấu mặn, để không mắc tội bạn cần mua thực phẩm đã làm sẵn, không được giết hại. Mặt khác, bạn nên khéo léo thiết kế các món ăn thuần rau củ quả nhiều hơn, giảm bớt một số món mặn, như thế vừa tốt cho sức khỏe cả nhà, vừa tiện lợi cho việc nấu nướng của bạn. Hiện có khá nhiều gia đình chưa hội đủ thuận duyên để vợ chồng con cái cùng ăn chay nên khi người vợ ăn chay vẫn phải đi chợ và nấu đồ ăn mặn cho gia đình. Thiển nghĩ, đây cũng là chuyện bình thường. Vì gia đình là trên hết, lo cho gia đình êm ấm, đầy đủ mới là điều quan trọng nhất. Bạn hãy chăm sóc gia đình bằng tất cả tấm lòng. Kham nhẫn tất cả vì hạnh phúc gia đình. Tìm cách chuyển hóa cả nhà cùng ăn chay với bạn vào những ngày chay. Phật giáo khuyến khích tín đồ mỗi tháng ăn chay ít nhất là hai ngày, nhiều hơn ( bốn ngày ) thì càng tốt. Mục tiêu này bạn cần lập ra cho cả nhà phấn đấu. Khi có được sự trợ duyên đồng thuận của cả nhà thì bạn sẽ không còn băn khoăn khi ăn chay mà phải nấu mặn nữa. 14 / Thương hoa và yêu vật Nguyện không làm tổn hại chúng sinh là một trong những nguyên tắc đạo đức căn bản của người Phật tử. Sau khi quy y Tam bảo, người Phật tử phát tâm giữ giới Không sát sinh. Trọng tâm của giới này là nguyện không giết người, sau đó là không làm tổn hại mọi loài. Nếu vô tình hay vì hoàn cảnh mưu sinh mà làm tổn hại các loài sâu bọ nhỏ nhít thì có thể sám hối. Nếu trồng hồng chỉ để chơi thì bạn nên chọn giải pháp không xịt thuốc trừ sâu. Hiện nay, có nhiều giải pháp thân thiện với môi trường mà vẫn có thể xua đuổi hiệu quả sâu bọ và côn trùng phá hoại. Cách này khá vất vả nhưng vẫn có ít hoa hồng để ngắm và thỏa mãn đam mê trồng hoa. Trong trường hợp trồng hoa hồng để buôn bán mưu sinh thì phân bón và thuốc trừ sâu gần như là bắt buộc. Thiết nghĩ, trường hợp này thì người trồng hoa hãy canh tác như bình thường và chấp nhận nghiệp quả của mình. Bởi nghề nào cũng có nghiệp và cộng nghiệp. Sợ tạo nghiệp mà vội bỏ nghề thì sẽ gặp khó khăn, không có tiền mưu sinh sẽ dễ dàng tạo ra nghiệp xấu khác nặng nề hơn. Khi biết mình có tạo nghiệp do đặc thù của nghề, chúng ta nên tránh tạo các nghiệp xấu khác đồng thời tích cực làm các việc thiện trong khả năng để cân bằng. 15 / Nên tùy duyên với xác thân tứ đại Hiện nay, tùy theo phong tục của từng vùng miền mà có cách thức mai táng khác nhau. Một số vùng miền thì sau khi chôn cất, xây lăng đắp mộ là xong. Một số vùng miền khác, sau khi chôn cất một thời gian khoảng vài năm thì cải táng, cải táng xong lập mộ phần cũng được xem là xong. Hiện có khá nhiều nơi ở đô thị chọn phương thức hỏa táng, tro cốt đem thờ ở chùa hoặc nghĩa trang là đã xong. Nói chung, sau khi đã lo xong, ổn định mộ phần cho người chết theo các cách như trên thì thân nhân không còn lo nghĩ gì thêm, chỉ còn việc thăm viếng hương khói hay sửa sang tu bổ nếu cần. Ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt như giải tỏa nghĩa trang ( hay nghĩa trang quá xa nơi ở hiện tại, con cháu không tiện thăm viếng và nhang khói, hoặc muốn thỉnh các cụ về quê cha đất tổ ) thì mới tiếp tục dời mộ sang nơi khác, hoặc đem thiêu thờ ở chùa gần nhà. Trường hợp của gia đình bạn, mộ phần của cụ ông được xem là đã ổn định. Nếu không vì nhu cầu thỉnh cụ về gần con cháu ( hay về quê ) thì cứ để cụ an yên. Với Phật giáo, con người sau khi chết thì tâm thức theo nghiệp tái sinh, còn thân thể tứ đại ( đất, nước, gió, lửa ) trả về với tứ đại. Vì thế, người Phật tử chân chính, hiếu thảo thì siêng năng làm phước để hồi hướng công đức phước báo cho người thân đã mất. Còn xương ( tro ) thuộc thân tứ đại của người chết thì tùy duyên; an táng cách nào cũng được. ......
@user-qv1yo3qe1q
@user-qv1yo3qe1q Ай бұрын
Trưởng Lão Tăng Kệ - Kinh Tiểu Bộ - Khuddaka Nikàya : Chúng con thành tâm tri ân công đức của Qúy Ngài Đại Trưởng Lão, Trưởng Lão, Hòa Thượng, Sư Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thượng Minh Hạ Châu, Ni Trưởng, Thượng Tọa, Ni Sư, Đại Đức, Tỳ Kheo, Tỳ kheo Ariyasilo, Tỳ Kheo Ni, Sa Di, Sa Di Ni, Thức Xoa Ma Na, Tu Nữ, Phật Tử, Tứ Chúng, Tăng Đoàn, Đạo Tràng, Tinh Xá,……Của Phật Giáo Theravada, Nam Tông, Bắc Tông,……: ( đoạn 14 ) : Chương I - Một Kệ - Phẩm Mười : Ðảnh Lễ Ðức Thế Tôn Bậc A La Hán Chánh Ðẳng Giác : 92 / Tôn Giả Cakkupàla ( Thera. 14 ) : Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh ở Sàvatthi, con của người điền chủ tên Mahàsuvanna, được đặt tên là Pàla, Ngài cũng được gọi là Pàla anh, vì em Ngài được gọi là Pàla em, cả hai anh em được Cha Mẹ giao phó cho những công việc ở gia đình. Khi Bậc Ðạo Sư đến tinh xá Kỳ Viên, Pàla anh giao gia sản cho người em và xuất gia. Sau sáu năm làm Sa Di, Ngài đi với sáu mươi Tỷ Kheo để học hỏi Chánh pháp. Các Vị này lựa một ngôi rừng gần một ngôi làng biên địa, tại chỗ ấy, dân làng là các Phật tử cư sĩ, và Ngài sống trong một chòi lá, sống hạnh viễn ly của một Vị tu hành. Ngài bị đau mắt và một vị thầy thuốc cho thuốc chữa, Ngài không chịu nghe theo lời thầy thuốc, bệnh nặng thêm. Ngài nghĩ : “ Thà làm cho chấm dứt các kiết sử của ta, còn tốt hơn là chấm dứt bệnh đau mắt “. Như vậy, Ngài bỏ qua bệnh đau mắt, chỉ lo phát triển thiền quán, cho đến khi Ngài chứng quả A La Hán thời cũng mù mắt luôn. Ngài được gọi là Vị A La Hán khô. Các cư sĩ hỏi các Tỷ Kheo về Ngài và nghe nói Ngài mù nên các cư sĩ hết lòng săn sóc cho Ngài. Rồi các Tỷ Kheo khác cũng chứng quả A La Hán và đề nghị đến Sàvatthi ( Xá Vệ ) để yết kiến Bậc Ðạo Sư. Nhưng Ngài nói : “ Tôi yếu và mù, con đường đi không phải là không nguy hiểm. Tôi sẽ làm trở ngại cho các Vị, các Vị hãy đi trước, thay mặt tôi đảnh lễ Bậc Ðạo Sư và các đại đệ tử khác, hãy nói với Pàla em tôi về tình trạng của tôi, và gửi cho tôi một người giúp đỡ ”. Cuối cùng, các Tỷ Kheo nhận lời đi, sau khi từ biệt các Vị hộ chủ và sắp đặt cho Ngài một chỗ ở. Các Tỷ Kheo làm theo lời dặn của Ngài và Pàla em bảo người cháu tên là Pàlika đi đến giúp đỡ Ngài. Các Tỷ Kheo làm lễ xuất gia cho Pàlika, vì con đường đi không có an toàn cho một người cư sĩ. Pàlika đi đến Ngài và cả hai người đều lên đường đi đến Sàvatthi. Giữa đường, Pàlika nghe một phụ nữ hát và đến tình tự với người ấy. Ngài biết được nên đuổi Pàlika đi, một mình đi đến Sàvatthi. Hạnh đức của Ngài làm cho chỗ ngồi của Sakka ( Ðế Thích ) nóng và Sakka hiện hóa một người dẫn đường cho Ngài đi đến tinh xá Kỳ Viên, ngay vào buổi chiều ấy. Trong khi Ngài ở Kỳ Viên, Pàla em lo phụng dưỡng Ngài, Ngài nói lên bài kệ như sau, khi Ngài đuổi Pàlika đi. Dầu ta có bị mù, Dầu mắt ta hư hoại, Dầu con đường ta đi, Dầu gai góc khó khăn, Ta sẽ tự mình đi, Dấn thân trên đường ấy, Nhưng ta không cùng đi, Kẻ ác hạnh như vậy. 93 / Tôn Giả Khandasumana ( Thera. 14 ) : Trong thời Đức Phật hiện tại, tái sanh trong một gia đình của Vua Màlla, Ngài được đặt tên là Khandasumana ( Bông lài ), vì khi Ngài sanh, bông lài nở hoa, Ngài nghe Đức Phật thuyết pháp khi Đức Phật trú ở tại rừng xoài của Cunda ở Ràvà, xuất gia và chứng được sáu thắng trí. Rồi Ngài nhớ đến đời sống quá khứ khi Ngài cúng một nhánh bông lài tại tháp của Đức Phật Kassapa, trong khi tất cả bông hái được đều thuộc về của Vua. Nhận thấy cử chỉ của Ngài giúp Ngài chứng được quả Niết Bàn, Ngài nói lên bài kệ như sau : Do một bông từ bỏ, Ðược hưởng tám ức năm, Sống trong cảnh cõi trời, Còn số năm còn lại, Ta được sống tịch tịnh. 94 / Tôn Giả Tissa ( Thera. 14 ) : Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh tại thành phố Roguva trong một gia đình Vua Chúa. Khi Phụ Vương mất, Ngài tiếp nối sự nghiệp của Vua Cha. Như một đồng minh với Vua Bimbisàra, Ngài gửi Vua các tặng vật châu báu, ngọc và y áo. Vua gửi Ngài đời sống của Đức Phật vẽ trên tấm tranh và lý duyên khởi được khắc trên một đĩa bằng vàng. Khi Ngài thấy vật này, vì lời phát nguyện trước các Đức Phật quá khứ, vì nhân duyên đời sống cuối cùng, Ngài suy tư định lý ấy, quán sát qua lại nhiều lần, học thuộc lòng nhiều lần, cho đến khi Ngài cảm thấy dao động và đi đến kết luận : “ Nay ta đã được thấy hình dung của Thế Tôn cùng với quá trình giáo lý của Ngài. Các dục đầy những đau khổ, vậy ta sống đời sống gia đình làm gì ? ”. Rồi Ngài thoái vị, xuất gia, cầm bát bằng đất và với một số quần chúng đi theo và khóc than, như Hoàng Tử Pukkusàti, Ngài từ bỏ hoàng cung, đi đến Rajagaha ( Vương Xá ). Tại đấy, Ngài ở tại hang Sabhasondika và yết kiến Thế Tôn. Nhờ Thế Tôn thuyết pháp, Ngài chứng quả A La Hán. Nói đến kinh nghiệm bản thân, Ngài nói lên bài kệ : Từ bỏ trăm bình bát, Bằng đồng, vàng quý giá, Ta cầm lấy bình bát, Làm bằng đất sét thường, Ðây là lần thứ hai, Ta làm lễ quán đảnh. 95 / Tôn Giả Abhaya ( 2 ) ( Thera. 14 ) : Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình Bà La Môn, được đặt tên là Abhaya. Sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp, Ngài xuất gia. Một hôm, Ngài đi khất thực ở trong làng, thấy một nữ nhân ăn mặc rất đẹp đẽ, tâm tư Ngài bị dao động, khi trở về tịnh xá, Ngài suy nghĩ : “ Thấy một sắc pháp, tâm ta sanh cấu uế, ta đã phạm lỗi lầm “. Từ bỏ tâm tư ấy, Ngài phát triển thiền quán và chứng A La Hán. Rồi Ngài nói lên sự sai lầm và sự thức tỉnh của Ngài ngang qua bài kệ : Thấy sắc, mất chánh niệm, Tác ý tưởng luyến ái, Tâm cảm thọ say mê, Ðắm trước tưởng an trú, Các lậu hoặc tăng trưởng, Ðưa đến gốc sanh hữu. 96 / Tôn Giả Uttiya ( Thera. 14 ) : Ngài tái sanh ở Kapilavatthu, trong thời Đức Phật hiện tại, trong một gia đình vương tộc Thích Ca, được đặt tên là Uttiya. Khi đến tuổi trưởng thành, Ngài chứng kiến sức mạnh của Đức Phật, khi Ngài đến thăm các gia đình bà con của Ngài, Ngài khởi lòng tin và xuất gia. Trong thời kỳ tu học, Ngài đi vào làng khất thực, nghe một nữ nhân ca hát, thiền định của Ngài bị thối thất và lòng dục khởi lên. Chế ngự với sức mạnh suy tư, Ngài bước vào tịnh xá rất dao động, Ngài ngồi thiền định vào buổi trưa, phát triển thiền quán, chứng quả A La Hán. Rồi Ngài nói lên sự giải thoát của Ngài khỏi đau khổ sanh tử, nhờ nhàm chán các dục trong bài kệ sau đây : Nghe tiếng, mất chánh niệm, Tác ý tưởng luyến ái, Tâm cảm thọ say mê, Ðắm trước tưởng an trú, Các lậu hoặc tăng trưởng, Ðưa đến nhiễm luân hồi. 97 / Tôn Giả Devasabha ( II ) ( Thera. 14 ) : Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài tái sanh trong một gia đình hoàng tộc Thích Ca, và được đặt tên là Devasabha. Khi lớn lên Ngài khởi lòng tin khi Thế Tôn giải quyết sự tranh chấp giữa dòng họ Thích Ca và dòng họ Koliya, Ngài xin quy y ba ngôi báu. Khi Đức Phật ở vườn cây bàng, Ngài đi đến gặp Thế Tôn, lần này Ngài xuất gia, Ngài chứng quả A La Hán, trú trên an lạc giải thoát, Ngài nói lên sự phấn khởi của Ngài với bài kệ như sau : Thành tựu chánh tính tấn, Sở hành trên niệm xứ, Tràn đầy hoa giải thoát, Sẽ nhập diệt, vô lậu. ......
@user-qv1yo3qe1q
@user-qv1yo3qe1q Ай бұрын
Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ( Mỗi người hãy tự mình thấp đuốc lên mà đi, hãy tự làm hòn đảo cho chính mình. Tin chắc rằng : Phật, Pháp, Tăng là thường trụ, Phật luôn ở trạng thái Niết Bàn “ tuyệt đối “; Phật giác ngộ là tự mình, do trí “ vô sư, chứ không hải trí hữu sư “; Phật quan sát và nhìn cuộc đời, sự vận hành của tất cả các Pháp mà giác ngộ vì “ tất cả các Pháp đều là Phật Pháp “, “ Như Lai là nghĩa các Pháp như như “; “ Tất cả chúng sinh dù hữu tình hay vô tình đều có Phật tánh “; “ Tất cả các Pháp đều vận hành theo lý “ Duyên sinh “, “ Nhân qủa “, “ Phước nghiệp “……; Khi chiêm ngưỡng tượng Phật, Chúng ta cố gắng thường hình dung Đức Phật đản sanh ở Ca Tỳ La Vệ, Phật thành đạo ở Bồ Đề Đạo Tràng, Phật thuyết pháp ở Ba La Nại và Phật nhập diệt ở Câu Thi Na; đó chính là 04 động tâm, tức 04 điểm kích động tâm chúng ta, tác động căn lành chúng ta khiến chúng ta phát tâm đến với Phật. Nếu chúng ta không phát được tâm Bồ đề, đương nhiên không thể đến với Phật, không thể hiểu Phật và không thấy Phật ). Nam Mô Thường Tịch Quang Độ Thanh Tịnh Diệu Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật. Nam Mô Thập Đại Thị Giả, Tôn Giả, Thập Tam Đại Tỳ Kheo Ni, Một Ngàn Hai Trăm Năm Mươi Năm Vị Tôn Giả, Trưởng Lão, Đại Đức, Sáu Ngàn Vị Sa Di Ni, Hòa Thượng, Ni Trưởng, Sư, Thượng Tọa, Ni Sư, Đại Đức, Sư Cô, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Thức Xoa Ma Na, Sa Di, Sa Di Ni, Tứ Chúng, Tinh Xá, Đạo Tràng, Tăng Đoàn Của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Tăng Đoàn Của Các Đức Phật Khác Trong Ba Thời Qúa Khứ, Hiện Tại, Vị Lai. Nam Mô Thuyết Pháp Đệ Nhất Phú Lâu Na Ni Đa La Ni Tử ( Purnamaitrayaniputra - Punnamantaniputta ) Tôn Giả. Nam Mô Trì Giới Đệ Nhất Ưu Bà Ly ( Upali ) Tôn Giả. + Chúng con xin nguyện : “ Lấy Giới Luật Làm Thầy - Nghiêm Trì Giới Luật “ Nam Mô Giải Không Đệ Nhất Tu Bồ Đề ( Subhuti ) Tôn Giả. + Chúng con cố gắng giữ cho Thân, Khẩu, Ý được thanh tịnh, tỉnh thức trong từng sát na, hơi thở. Nam Mô Luận Nghị ( Hùng Biện ) Đệ Nhất Đại Ca Chiên Diên ( Mahā Kaccāna, Maha Kaccayana, Katyayana ) Tôn Giả. Nam Mô Phúc Lành Đầu Tiên ( s, p : Piṇḍola - Bharadvāja, 賓頭盧頗羅墮 ), Phúc Điền Đệ Nhất ) Tân Đầu Lô Phả La Đọa Xà ( Tân Đầu Lô Phả La Đọa Thệ ( 賓頭盧頗羅墮誓 ), Phả La Đọa ( s : Bharadvāja, 頗羅墮 ), Tân Đầu Lô ( 賓頭盧 ) hay Tân Đầu ( 賓頭 ); Trường Mi Tăng ( 長眉僧 ) hay Trường Mi Sa Môn ( 長眉沙門 ) ). Nam Mô Thần Thông Đệ Nhất Đại Mục Kiền Liên ( Mahà Moggallàna ) Tôn Giả. Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên ( Mahà Moggallàna ) Bồ Tát. ( ……Dù Cha ra sao vẫn luôn là đấng sinh thành - Dù Mẹ làm sao cũng luôn mang nặng đẻ đau ……). Nam Mô Pháp : Nhất tâm đảnh lễ : Chúng con nguyện y giáo phụng hành : Nam Mô Tăng. Nam Mô Phật. Nam Mô Pháp. Nam Mô Tăng. …… “ Hương các loại hoa thơm, Không ngược bay chiều gió, Nhưng hương người đức hạnh, Ngược gió khắp tung bay. Chỉ có bậc chân nhân, Tỏa khắp mọi phương trời. “ “ Hoa chiên đàn, già la; Hoa sen, hoa vũ quý; Giữa những hương hoa ấy; Giới hương là vô thượng “ “ Ít giá trị hương này; Hương già la, chiên đàn; Chỉ hương người đức hạnh; Tối thượng tỏa Thiên giới.” …… + Thập Đại Thị Giả, Tôn Giả ( Xá Lợi Phất - Sāriputra - Trí Huệ Đệ Nhất; Ma Ha Ca Diếp - Mahākāśyapa - Đầu Đà ( Khổ Hạnh ) Đệ Nhất; Mục Kiền Liên - Mahāmaudgalyāyana - Thần Thông Đệ Nhất; Phú Lâu Na - Pūrṇa - Thuyết Pháp Đệ Nhất; Tu Bồ Đề - Subhūti - Giải Không Đệ Nhất; La Hầu La - Rāhula - Mật Hạnh Đệ Nhất; A Nan Đà - Ānanda - Đa Văn Đệ Nhất; Ưu Bà Li - Upāli - Giới Luật Đệ Nhất; A Na Luật - Aniruddha - Thiên Nhãn Đệ Nhất; Ca Chiên Diên - Katyāyana - Luận Nghĩa Đệ Nhất ); Một Ngàn Hai Trăm Năm Mươi Năm Vị Tôn Giả, Đại Đức, Tỷ Kheo, Tỷ Kheo Ni, Sa Di, Sa Di Ni. + Chúng Tỷ Kheo Ni : Thập Tam Đại Tỳ Kheo Ni ( Màhàpàjapati Gotamì - Tối Thắng Đệ Nhất; Khemà - Đại trí tuệ, tối thằng; Uppalavannà - Đầy đủ thần thông, tối thắng; Patàcàrà - Trì Luật, tối thắng; Dhammadinnà - Thuyết Pháp, tối thắng; Nandà - Tu Thiền, tối thắng; Sonà - Tinh cần tinh tấn, tối thắng; Sakulà - Thiên nhãn, tối thắng; Bhaddà Kundalakesà - Có thắng trí mau lẹ, tối thắng; Bhaddà Kapilànì - Nhớ đến các thời quá khứ, tối thắng; Bhaddà Kaccana - Đã chứng đạt đại thắng trí, tối thắng; Kisàgotami - Mang thô y, tối thắng; Sigalàmàtà - Đầy đủ tin thắng giải, tối thắng ) và Các Vị ( Cố ) Ni Sư Trưởng, Ni Sư, Sư Cô. + Nhị Thập Chúng Tỷ Kheo ( 20 vị ) : Ba Ca Ly: Tín tâm đệ nhất - Bà Kỳ Sa: Thí tài đệ nhất - Bạc Câu La: Không bệnh đệ nhất - Ca Ly Hào Đà Tử Bạt Đề: Tánh quý đệ nhất - Ca Lưu Đà Di: Giao tế đệ nhất - Câu Hy La: Bác giải đệ nhất - Chu Ly Bàn Đà Già: Giải thoát đệ nhất - Câu Sát Đà Na: Hạnh vận đệ nhất - Kiếp Tân Na: Giáo hội Tỳ kheo đệ nhất - Kiều Trần Như: Pháp lạp đệ nhất - La Cưu Sất Ca Bạt Đề: Mỹ ngôn đệ nhất - Ly Bà Đa: Thiền định đệ nhất - Ma Ha Bàn Đề: Vô trưởng đệ nhất - Nan Đà Ca: Giáo hội ni chúng đệ nhất - Tần Đầu Lô: Sư hống đệ nhất - Tô Na Khảo Lỵ Tỳ Sa: Tinh tấn đệ nhất - Tư Bá Ly: Sở đắc đệ nhất - Ưu Lâu Tần La Ca Diếp: Lãnh chúng đệ nhất - Ưu Bà Ly: Ký ức đệ nhất - Văn Nhị Bách Ức: Mỹ âm đệ nhất. + Lục Chúng Ưu Bà Tắc ( 6 vị ) : Chất Đa: Thuyết pháp đệ nhất - Kỳ Bà: Y bộ đệ nhất - Nan Cưu La: Tín thất đệ nhất - Tu Đạt: Bố thí đệ nhất - Tu La Am Bà Đa: Bất hại tín tâm đệ nhất - Úc Ca: Cúng dường đệ nhất. + Ngũ Chúng Ưu Bà Di ( 5 vị ) : Ca Đế Nhỉ: Tín ngưỡng kiên cố đệ nhất - Ca Ly: Truyền Tam bảo đệ nhất - Tu Bỉ Đa: Khán bệnh đệ nhất - Tỳ Xá Khư: Bố thí đệ nhất - Uất Đa La: Đa văn đệ nhất. + Bát Đệ Tử Đặc Thù Của Đức Phật ( 8 vị ) : Chu Ly Bàn Đà Già ( Suddhi panthaka, Cung Thác Bán Ca ) - Kiều Trần Như - Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp ( Urivilia Kasyapa ) - Văn Nhị Bách Ức ( Nhị Thông Ức Nhĩ ) - Ma Ha Ba Xà Ba Đề - Liên Hoa Sắc - Cư Sĩ Tu Đạt ( Cấp Cô Độc ) - Ưu Bà Di Tỳ Xá Khư. ( Vasàkhà, Lộc Mẫu, Vợ Của Trưởng Giả Tu Đạt ). ......
@user-qv1yo3qe1q
@user-qv1yo3qe1q Ай бұрын
Phật Pháp và Cuộc Sống : ( đoạn 4 ) : 10 / Hiểu đúng về tạo nghiệp sát Theo lời Đức Phật dạy, có năm nghề buôn bán mà hàng Phật tử không được làm : “ Có năm nghề buôn bán, này các Tỳ Kheo, một nam cư sĩ không nên làm. Thế nào là năm ? Buôn bán đao kiếm, buôn bán người, buôn bán thịt, buôn bán rượu, buôn bán thuốc độc ” ( Kinh Tăng chi bộ, chương 05, phẩm Nam cư sĩ, phần Người buôn bán ). Điều đáng lưu tâm và bàn bạc ở đây là lời dạy Không bán thịt. Hiện có hai khuynh hướng luận giải, giải thích khác nhau về lời dạy này : 1 - Không bán thịt là không làm nghề đồ tể ( trực tiếp giết hại ), 2 - Không bán thịt là chẳng những không giết hại mà còn không buôn bán thú vật, không bán thịt sống và cả thịt chín ( dù không trực tiếp giết hại ). Trước hết là vấn đề bán thịt có trực tiếp giết hại. Thời xa xưa, những người bán thịt hầu hết đều kiêm luôn giết mổ. Muốn có thịt để bán cho khách thì người hàng thịt phải sát sinh. Cho nên bán thịt ( sống hay chin ) mà kiêm đồ tể, giết mổ để lấy thịt đem bán là hoàn toàn không được, vì tạo nghiệp sát rất nặng nề. Còn vấn đề bán hay trao đổi vật nuôi để lấy sản vật, thiển nghĩ trong bối cảnh xã hội nông nghiệp thời cổ đại, người nông dân chủ yếu trồng trọt và chăn nuôi nên việc bán hoặc trao đổi gia súc để lấy các sản vật khác là hoạt động bình thường. Do đó, cụm từ “ không bán thịt ” ở đây không hẳn là Đức Phật cấm trao đổi gia súc, thú vật nói chung. Thực tiễn hiện nay, người bán hàng ăn mặn như bán bánh mì thì tuy “ có bán thịt ” nhưng hầu hết đó đã là thực phẩm được làm sẵn. Và như vậy họ không hội đủ 05 yếu tố để tạo nên nghiệp sát, gồm : 1 - Có chúng sinh, 2 - Biết rõ chúng sinh ấy, 3 - Có tâm giết hại, 4 - Cố gắng giết hại ( tự giết, bảo người giết, tìm cách giết ), 5 - Chúng sinh ấy chết. Trong trường hợp này, người bán bánh mì thịt tuy có liên hệ trong tương quan cộng nghiệp nhưng không tạo nghiệp sát sinh. Dĩ nhiên người Phật tử thì không nên mở cửa hàng, tiệm sạp chuyên bán thịt tươi sống. Vì những hình ảnh thịt xương máu huyết ngổn ngang ám ảnh lâu ngày sẽ ảnh hưởng xấu đến tâm thức. Nhưng “ bán bánh mì thịt ” thì trong chừng mực nào đó, nếu chưa tìm được nghề khác để mưu sinh vẫn có thể chấp nhận. Vì như đã nói, họ chỉ có liên hệ cộng nghiệp mà thôi chứ không tạo nên nghiệp sát. Liên hệ đến các nghề khác trong cuộc sống, dù cao quý đến mấy, không ai mà không tạo nghiệp, nên gọi là nghề nghiệp. Người Phật tử nguyện sống và làm ăn lương thiện, tránh xa hoặc hạn chế đến mức thấp nhất các biệt nghiệp xấu ác nhưng chắc chắn không thể tránh hết các liên hệ cộng nghiệp vốn vô lượng vô biên không thể kể hết được. Do đó, thành tâm sám hối nghiệp chướng hàng ngày, trong mỗi nửa tháng là việc cần làm. Song hành với sám hối là nỗ lực làm mọi việc phước thiện, tốt lành khác trong khả năng có thể để vun bồi thêm phước đức. Chúng tôi nghĩ rằng, người Phật tử luôn phát huy trí tuệ và từ bi để tìm một nghề mưu sinh thích hợp với hoàn cảnh và khả năng của mình. Không chạy theo lợi nhuận mà bất chấp tất cả nhưng cũng không quá cứng nhắc, không dám làm gì vì thấy nghề nào cũng có tội. Bởi “ không dám làm gì ” thì sẽ dẫn đến túng thiếu, mà “ cùng tắc biến ” lại chính là nguyên nhân tạo ra vô số tội nghiệp khác. 11 / Hóa giải nghiệp nhân xấu Đúng là “ nghề nghiệp ”, mỗi nghề đều mang một nghiệp riêng. Bạn chỉ là nhân viên, biết là số liệu không đúng nhưng chẳng thể làm khác được. Xét theo bản chất của sự tạo nghiệp thì người chủ doanh nghiệp mới gây tạo nghiệp gian dối, còn bạn chỉ mang cộng nghiệp với chủ mà thôi. Tuy chỉ là cộng nghiệp nhưng ảnh hưởng của nó lên đời sống cũng chẳng phải ít, cho nên bạn cần tư duy để tìm phương cách chuyển hóa. Lý tưởng nhất, nếu có thể thì bạn tìm cách khuyến hóa người chủ doanh nghiệp tin nhân quả mà bớt tham lam và gian dối. Bởi nhân quả luôn rạch ròi, nhân gian tham thì không thể có quả tốt đẹp và bền lâu. Tuy vậy, trong thực tế, điều này rất khó khả thi. Mặt khác, nếu có thể thì bạn nên chuyển chỗ làm, tìm một nơi khác làm ăn chân chính, ít tạo nghiệp hơn. Trong trường hợp chưa tìm được việc làm mới thì bạn luôn ý thức rằng kết quả lao động của bạn hiện nay có một phần của nghiệp làm ăn gian dối. Để góp phần hóa giải cộng nghiệp xấu cho bản thân, thiết nghĩ bạn nên tích cực làm các việc thiện lành một khi có thể. Có vô số nghiệp lành sẽ được tạo ra nếu bạn biết vun bồi. Những nghiệp lành như : Bố thí, giữ giới, hành thiền, cung kính, giúp đỡ trong việc thiện, hồi hướng - chia phước, hoan hỷ với phước của người khác hồi hướng, thuyết pháp, nghe pháp, chánh kiến… sẽ tạo ra phước quả góp phần chi phối và chuyển hóa những cộng nghiệp xấu, giúp bạn thiết lập đời sống an vui. ......
@user-qv1yo3qe1q
@user-qv1yo3qe1q Ай бұрын
Phật Pháp và Cuộc Sống : ( đoạn 2 ) : 4 / Hiểu đúng về chữ " nợ " khi con bất hiếu Nợ do trước đó đã vay mượn của người mà chưa trả nên mắc nợ. Nợ được vận dụng trong thuyết giảng Phật pháp để dễ hình dung về nhân quả. Nhân có vay thì quả phải trả, nhân mắc nợ thì phải bị quả đòi nợ bằng cách này hay cách khác. Cuộc sống muôn màu với nhiều hoàn cảnh và thân phận là biểu hiện của nhân quả, vay trả, trả vay. Hiểu về thuyết nhân quả - nghiệp báo của Phật giáo có thể giúp chúng ta biết rõ hơn về những điều này. Người ta thường nói “ gieo nhân nào thì gặt quả nấy ”, điều ấy chỉ đúng một phần mà thôi. Để hiểu đúng nhân quả theo giáo lý Phật giáo, chúng ta cần biết về nhân - duyên - quả. Nhân là nguyên nhân chính, duyên là những nguyên nhân phụ giúp hình thành quả, quả là kết quả trong hiện tại. Trong đó duyên đóng vai trò rất quan trọng, có thể làm cho quả lệch hướng, khác biệt ít hoặc nhiều đối với nhân. Tuy nhân - duyên - quả là một tiến trình nhưng chúng không vận hành độc lập mà luôn tương tác với các tiến trình nhân - duyên - quả khác. Nhân của tiến trình này vừa là duyên, là quả của tiến trình kia; duyên của tiến trình này vừa là nhân, là quả của tiến trình nọ; quả của tiến trình này vừa là duyên, là nhân của tiến trình khác. Chúng luôn vận động, tương tác lẫn nhau để hình thành thực tiễn sinh động, đa dạng, trùng trùng điệp điệp. Giáo lý nhân - duyên - quả của Phật giáo phức tạp, đa chiều như thế, nhằm chỉ ra hai điều. Thứ nhất, nhân - duyên - quả đúng với sự thật vận động khách quan của vạn pháp. Thứ hai, chỉ ra vai trò quan trọng của duyên. Nhân thì đã tạo, mang tính thụ động, thuộc nghiệp cũ. Duyên thì đang tạo, mang tính chủ động, thuộc nghiệp mới. Người học đạo nắm được điều này để luôn nỗ lực kết duyên lành, tạo nghiệp mới tích cực thì quả được chuyển hóa tốt đẹp theo. Kinh Tăng chi bộ, Đức Phật có dạy : Một nắm muối nếu bỏ vào chén nước thì không uống được. Cũng nắm muối ấy nếu bỏ vào sông Hằng thì uống bình thường. Nắm muối ( nhân xấu ) là nghiệp cũ. Nước trong chén ( duyên chưa tốt ) hay trong sông Hằng ( duyên tốt ) là nghiệp mới. Nếu nghiệp mới thiện lành được tạo ra như nước sông Hằng thì không ngại nắm muối kia. Trở lại vấn đề, những gia đình có con bất hiếu với cha mẹ thường là cha mẹ đã mắc nợ xấu với con trong quá khứ. Như vậy, cha mẹ đang có một “ nắm muối ”. Nếu cha mẹ hiểu đúng nhân - duyên - quả thì cần nỗ lực tạo duyên lành. Duyên lành ở đây chính là trau dồi đạo đức ( giữ năm giới ), sống thiện lành ( mười nghiệp lành ) và tăng cường thương yêu, giáo dục con cái. Vì không thể bỏ con nên các bậc cha mẹ nào biết tạo duyên lành thì có thể cải thiện tình hình. Những gia đình có con cái hư đốn nhưng sau một thời gian con biết phục thiện, chí thú làm ăn, thương kính cha mẹ chính là nhờ phước đức của duyên lành như “ nước sông Hằng ” này. Ngược lại, cùng hoàn cảnh con cái bất hiếu như thế nhưng nếu cha mẹ vụng tu, chỉ tạo ra “ nước trong chén ” thì gia đình tan nát, cha mẹ phải khổ suốt đời. Nhân quá khứ đã xấu, duyên lành hiện tại thì kém, không thể có quả an vui. Đối với con cái, nếu bất hiếu với cha mẹ thì tạo nghiệp và phạm tội bất hiếu. Người ta thường nói : Cha mẹ sinh con, trời sinh tính. “ Trời ” đây chính là biệt nghiệp của người con, liên quan với cộng nghiệp của cha mẹ. Mỗi người khi sinh ra đều thừa tự nghiệp cũ của mình đồng thời chịu trách nhiệm với các nghiệp mới đang gây tạo. Trường hợp “ con bất hiếu là do cha mẹ mắc nợ con ” là thuộc về nghiệp cũ, cha mẹ cần tạo duyên lành để chuyển hóa và loại trừ. Còn nhiều trường hợp khác, con bất hiếu là do nghiệp mới của nó, vì không được giáo dục tốt, học theo những điều xấu để rồi thành ra bất hiếu. Cả hai trường hợp này đều tạo nghiệp và phạm tội bất hiếu nặng nề. Quan trọng là, cộng nghiệp hay biệt nghiệp đều không cố định, có thể thay đổi, chuyển hóa được. Vì thế các bậc cha mẹ cần sống đạo đức, theo thiện nghiệp, nỗ lực giáo dục và yêu thương thì có thể chuyển hóa con cái ngỗ nghịch. 5 / Kinh Đại thừa có phải do các vị Tổ Trung Hoa viết ra ? Hiện tại trên thế giới có hai truyền thống Phật giáo lớn, đó là Phật giáo Nam tông ( Nam truyền ) và Phật giáo Bắc tông ( Bắc truyền ). Từ chiếc nôi Ấn Độ, Phật giáo truyền xuống phương Nam thì gọi là Nam truyền, truyền lên phương Bắc thì gọi là Bắc truyền. Kinh điển Phật giáo Nam tông được chép bằng tiếng Pali. Kinh điển Phật giáo Bắc tông được chép bằng tiếng Sanskrit. Kinh điển Phật giáo Bắc tông bằng tiếng Sanskrit được các nhà sư Ấn Độ ( Tây Vực nói chung ) lần lượt mang đến và dịch ra tiếng Trung Hoa, kết hợp với các kinh điển do các nhà sư Trung Hoa đi Ấn Độ thỉnh về, theo thời gian kết tập thành kinh điển Hán tạng. Như vậy, những ai nói kinh điển Phật giáo Hán tạng ( Bắc tông, Đại thừa ) do các vị Tổ Trung Hoa viết ra là hoàn toàn không chính xác. Nghiên cứu lịch sử truyền dịch kinh điển Hán tạng và tìm hiểu xuất xứ của các bản kinh sẽ thấy rõ phần lớn kinh điển Phật giáo ( Hán tạng ) được dịch từ tiếng Sanskrit ( Phạn ngữ ) sang Hán ngữ. Tiếc rằng, hiện có rất ít bản kinh gốc Phạn ngữ được tìm thấy ( phần lớn bị chiến tranh tàn phá tại Ấn Độ ) nên cũng khó khăn cho việc phối kiểm các kinh văn Hán ngữ hiện hành. Mặt khác, cần thẳng thắn nhìn nhận là, trong kho tàng kinh điển Hán tạng ( Bắc tông, Đại thừa ) rất đồ sộ, ngoài các bộ kinh có nguồn gốc từ Ấn Độ ( Phạn ngữ ), còn có một số ít kinh văn được trước tác tại Trung Quốc rất muộn về sau. Các nhà nghiên cứu kinh điển bằng phương pháp văn bản học đã xác định điều ấy. Những kinh văn hậu tác này tuy vẫn được cho nhập tạng nhưng các nhà kiết tập đã cẩn trọng lưu ý và xếp vào Nghi tợ bộ. Thiển nghĩ, trong kinh điển Phật giáo Hán tạng ( Bắc tông, Đại thừa ) tuy có một số kinh được trước tác tại Trung Hoa, nhưng phủ nhận toàn bộ kinh điển ấy không phải do Phật Thích Ca thuyết là một sự thiển cận và hẹp hòi. Người học Phật hiện nay cần phát huy chánh kiến để hội nhập với Phật giáo thế giới. Đứng trên lập trường truyền thống, tông phái của mình để phê phán hay công kích các truyền thống, tông phái khác là điều không nên. Người học Phật cũng cần biết rằng, ngay cả Kinh tạng Pali, được xem là Nguyên thủy, gần với lời dạy của Đức Phật nhất cũng được ghi chép khá muộn về sau ( khoảng từ 300 đến 500 năm sau Phật Niết bàn ). Trong khoảng thời gian trên dưới bốn thế kỷ, kinh Phật được gìn giữ và lưu truyền chủ yếu nhờ vào trí nhớ, thuộc lòng và truyền miệng. Vì thế, nghi vấn về một số yếu tố hậu tác trong Kinh tạng Pali ( dù không nhiều ) cũng đã được các nhà nghiên cứu đặt ra. Thế nên, để phân biệt kinh nào đúng và kinh nào không đúng lời Phật dạy, người học Phật cần dựa vào Tam pháp ấn. Đức Phật đã dạy về Ba dấu ấn Chánh pháp là vô thường - khổ - vô ngã. Những kinh văn, dù được ghi bất cứ ngôn ngữ nào, nếu thiếu vắng ba dấu ấn này thì không phải Chánh pháp, người học Phật cần thận trọng khi đọc tụng, nghiên cứu và phụng hành. Còn lại những kinh văn nào có đầy đủ ba dấu ấn Chánh pháp thì hãy thọ trì. ......
@user-qv1yo3qe1q
@user-qv1yo3qe1q 25 күн бұрын
Phật Pháp và Cuộc Sống : Tất cả các Pháp đều là Phật Pháp : Chúng sanh đa bệnh - Phật Pháp đa phương : ( đoạn 207 ) : 640 / Thêu tranh hình Phật Ngày xưa, trước khi khởi sự là những việc có tính thiêng liêng, trọng đại người ta thường phát nguyện “ ăn chay, nằm đất ” ( bao hàm không quan hệ ân ái nam nữ ) chí ít từ ba ngày trở lên. Dĩ nhiên việc ăn chay, nằm đất này được thực hành theo đúng nghĩa đen của nó. Nhưng qua đó, sự phát nguyện này mang một ý nghĩa sâu xa là tịnh hóa thân tâm, thể hiện sự trong sạch, trang nghiêm, thành kính của thân thể và tâm hồn trước những việc có tính hệ trọng để mong ơn trên gia hộ cho công việc được thành tựu như ý. Riêng đối với những công việc có tính thiêng liêng như vẽ, thêu, khắc, tạc tượng Phật và Bồ Tát thì sự phát nguyện thực hành “ ăn chay, nằm đất ” lại càng tinh chuyên hơn. Ngày nay, thỉnh thoảng vẫn còn một số người tuân thủ theo những nguyên tắc này. Nghiêm giữ những điều kiêng kỵ hay tự thúc liễm mình theo kỷ luật riêng trước và trong khi làm những việc thiêng liêng, trọng đại. Ai làm được như lệ xưa thì rất tốt, rất đáng được ca ngợi. Còn ai chưa làm được, theo thiển nghĩ, biết lưu tâm tới vấn đề tịnh hóa thân tâm đã là quý hóa lắm rồi, vì các điều kiện nêu trên không phải ai cũng làm được. Riêng bạn, thêu tranh Phật như một hình thức công phu là rất tốt. Thêu tranh Phật cũng chính là tu, ý tập trung vào hình tượng Phật, tay nắn nót từng mũi chỉ đường kim theo hình tượng Phật, nếu thêm miệng thầm niệm Phật nữa thì chính là ba nghiệp thanh tịnh. Nhờ nương vào việc thêu tranh tượng Phật mà bạn tịnh hóa được ba nghiệp nên tuy không “ ăn chay, nằm đất ” theo nghĩa đen trong thực tế mà vẫn trọn vẹn ý nghĩa dọn mình trong sạch, chẳng những không mắc tội mà còn được công đức vô lượng. 641 / Cần trực tiếp tham dự Lễ quy y Cả hai bạn đều nên đến chùa đăng ký quy y, và nhất là phải trực tiếp tham dự lễ để tự thân mình đối trước Phật - Pháp - Tăng phát lời thệ nguyện trọn đời quy hướng Tam bảo, chính thức trở thành Phật tử. Sau khi quy y xong, cũng đối trước Tam bảo phát lời thệ nguyện giữ gìn 05 giới ( hoặc ít hơn ) thì vấn đề quy giới mới thành tựu như pháp. Mặc dù hiện nay, tâm và hạnh của các bạn đã là tâm hạnh một Phật tử thuần thành. Nhưng sẽ tốt hơn cho các bạn rất nhiều nếu đủ duyên lành trực tiếp tham dự Lễ quy y. Vì lúc đối trước Tam bảo phát nguyện quy y là giờ phút thiêng liêng. Chính nhờ sự giao cảm đó người quy y mới nhận được năng lượng hộ trì rất hùng hậu từ Tam bảo mà người không quy y chẳng bao giờ cảm nhận được; và điều này sẽ trợ duyên cho Phật tử tu học tinh tấn trên đường đạo rất nhiều. Riêng bạn Quang Doanh muốn giữ pháp danh của mình, tốt nhất là về quê, lên chùa ( đã cấp phái quy y cho bạn ) xin quy y Tam bảo. Trong trường hợp bạn không về chùa quê để quy y mà quy y tại một ngôi chùa khác thì tốt nhất nên dùng pháp danh sau này. Nhân đây chúng tôi thiết nghĩ, Chư Vị Tăng Ni khi hướng dẫn quy y cho Phật tử, tuy có phương tiện “ tùy duyên ” nhưng phải tuân thủ sự “ bất biến ” để Phật sự quy y luôn đúng như luật, như pháp. 642 / Khi chồng đòi ly hôn Do hoàn cảnh cuộc sống bận rộn và xa xôi cách trở nên sự tìm hiểu về người bạn đời tương lai của cả hai vợ chồng bạn trước khi thành hôn có thể nói là chưa được sâu sát. Nên sau khi về sống chung với nhau, tính cách thực của mỗi người dần được hé lộ ra. Sự bất đồng quan điểm dẫn đến cãi cọ trong thời gian đầu sống chung cũng không phải là chuyện hiếm giữa các cặp vợ chồng son. Tuy vậy, nếu vợ chồng sống chung gần gũi thì dần dà có thể tìm hiểu sâu hơn về tính cách của nhau để khắc phục tình trạng bất đồng này. Nhưng đối với hoàn cảnh của bạn hiện nay, anh ấy đang lao động ở nước ngoài, lại đòi ly hôn, còn hăm he “ sẽ không về nước nữa, cho vợ đợi đến khi nào chán sẽ thôi ”, nếu không nỗ lực thì cũng khó có cơ hội khắc phục. Theo chúng tôi, hiện bạn đã học xong, có bằng cấp đàng hoàng nên việc đầu tiên là bạn cần nhanh chóng tìm việc làm. Đi làm, đối với bạn hiện nay có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Có công ăn việc làm sẽ khiến bạn tự chủ, xua tan mặc cảm tự ti “ ăn bám chồng ” cùng cảm giác nhàm chán suốt ngày chỉ quanh quẩn trong nhà. Bạn cứ mạnh dạn đi làm vì không ai có thể buộc bạn ở nhà cả, dù đó là chồng của bạn. Chính môi trường làm việc, giao tiếp, sự tự chủ về kinh tế cùng với nhiều ứng xử xã hội khác sẽ giúp bạn giải tỏa nhiều vướng mắc trong hiện tại và ngày một trưởng thành, vững chãi hơn. Song hành với việc đi làm, thông qua các phương tiện liên lạc hiện đại hiện nay, bạn cố gắng kết nối với chồng để sẻ chia, tâm sự, bày tỏ tất cả tâm tư, tình cảm, ước vọng của mình với một tấm lòng chân thành, yêu thương, kính trọng nhất. Nhất là những bất đồng dẫn đến cãi cọ bạn cần tháo gỡ với tâm hòa giải, xây dựng. Bạn biết nhường nhịn trong mỗi lần vợ chồng xảy ra cãi vã là điều tốt, nhưng sau đó hết căng thẳng phải mạnh mẽ góp ý xây dựng lẫn nhau, quyết không để nhường nhịn thành nhu nhược. Bạn cứ hết lòng mong muốn hàn gắn những rạn nứt để đoàn tụ gia đình nhưng nếu chồng bạn kiên quyết đòi ly hôn hoặc ly thân ( không về nước nữa ) thì bạn cũng nên cân nhắc để chọn cho mình một hướng đi mới. Trong tình cảm vợ chồng, sau mọi nỗ lực cứu vãn mà không hàn gắn được nữa thì cũng nên chủ động “ giải thoát ” cho mình và người bạn đời. Là Phật tử, chúng ta không nên quá chấp thủ bất cứ điều gì mà phải cố gắng tháo gỡ để sao cho nhẹ nhàng, thanh thản trong mọi phương diện nhằm sống khỏe, sống vui trong cuộc đời tạm bợ này. Nếu ly hôn, bạn vẫn tiếp tục công việc của mình, ngoài giờ làm việc bạn lên chùa để tu tâm dưỡng tánh thêm thì rất tốt. Nhưng nếu ly hôn rồi bạn có ý vào chùa ở ( xin xuất gia ) thì không nên, vì không nhất thiết phải như vậy. 643 / Nghiệp “ Câu cá ” Trong dân gian hay nói “ nghề chơi cũng lắm công phu ”. Câu cá cũng được xem là một trò chơi, thú tiêu khiển khá công phu của một số người nhàn rỗi, khá giả. Nhưng trong vô số trò tiêu khiển, thú vui của tuổi già thì câu cá ( hay săn bắn ) không phải là trò hiền lành mà gắn liền với nghiệp sát hại chúng sanh. Người Phật tử có thể xem đây là một trò chơi ác, một thú vui bất thiện, có hại cho đời này và cả đời sau, không nên tham dự vào. Bạn là Phật tử và đã có quan điểm rất đúng đắn “ luôn tâm niệm sống thế nào cho tốt, góp phần bảo vệ thiên nhiên, nuôi dưỡng từ tâm theo Phật dạy ”. Ngoài ra còn rất nhiều hoạt động khác, có lợi ích cho thân tâm, cho đời này và cả đời sau hơn câu cá rất nhiều như tập dưỡng sinh, tập thiền, đi bộ, trồng cây… và các hoạt động xã hội bổ ích khác. Mỗi người đều có nghiệp riêng, chọn thú tiêu khiển câu cá cũng do nghiệp của họ. Nếu có dịp, bạn cũng nên chia sẻ tâm sự để những người bạn thích đi câu nhận thức được hành vi câu cá để tiêu khiển là không tốt, vì tạo nghiệp giết chóc, tàn hại môi trường nhằm giúp họ chuyển nghiệp xấu câu cá sang một hoạt động giải trí khác bổ ích hơn. ......
@user-qv1yo3qe1q
@user-qv1yo3qe1q 27 күн бұрын
Phật Pháp và Cuộc Sống : Tất cả các Pháp đều là Phật Pháp : ( đoạn 116 ) : 336 / Hiểu đúng về “ xả bỏ ham muốn ” Theo Phật giáo, ham muốn (tham lam, tham ái, tham dục, dục vọng) là phiền não căn bản tồn tại trong tất cả mọi người. Tham ái và vô minh chính là cội nguồn của mọi tranh chấp, khổ đau. Vì lòng tham vốn vô hạn, dục vọng không có điểm dừng nên Phật giáo dạy người phát huy tỉnh thức để chuyển hóa, giảm thiểu và buông xả bớt ham muốn nhằm thiết lập bình an, lợi mình và ích người. Xả ly toàn bộ ham muốn vị kỷ chính là bậc Thánh A-la-hán, hoàn toàn giải thoát sinh tử, khổ đau. Vì bản chất của con người là tham-ái-dục nên xả bỏ ham muốn hoàn toàn (ly tham, đoạn tham) là ước vọng, là cứu cánh, còn sống trong đời thường giảm thiểu ham muốn đã là quý hóa lắm rồi. Nói cụ thể, mục tiêu của người Phật tử là buông xả bớt ham muốn, không bo bo vị kỷ, sống san sẻ vị tha để mình và người đều lợi ích, an vui. Nên phải xác định ly tham là mục tiêu sau cùng, bớt tham là mục tiêu hiện tại. Ham muốn thì vô cùng, phân loại thì có tham ngũ dục (tiền bạc, sắc đẹp, danh tiếng, ăn uống, ngủ nghỉ), đắm lục trần (đối tượng của sáu giác quan: sắc- cảnh đẹp, thanh- tiếng hay, hương- mùi thơm, vị- ngon ngọt, xúc- êm ái, pháp- những đối tượng của tâm ý). Dĩ nhiên khó có thể đạt được những tham muốn này, thường thì được cái này lại mất cái kia, dù sao thỏa mãn các tham muốn vẫn là hạnh phúc của thế thường. Thực tiễn đời sống phải có ngũ dục (không có là nguy), phải có đời sống dễ chịu (lục trần, ngoại cảnh không chướng nghịch) nhưng quá tham đắm lại là điều không tốt, nhiều mong cầu sẽ phiền não khổ đau. Thế nên, người Phật tử cũng có mong muốn chính đáng như sức khỏe, bình an, hạnh phúc; mong muốn đầy đủ phước báo để lợi mình và lợi người. Thực tập buông bớt tham đắm, người Phật tử lập hạnh muốn ít và biết đủ (thiểu dục và tri túc). Muốn ít là vì biết nghĩ đến người, mong muốn được sẻ chia với người nên không gom hết cho mình. Biết đủ là không quá tham cầu, chấp nhận thực tiễn, vui với những gì mình đang có (vì muốn nhiều hơn chưa hẳn đã được mà càng nặng nề, bận tâm thêm). Cần phải thấy rõ, các duyên bên ngoài (có vật chất, ngũ dục) chỉ là những điều kiện cần, bình an trong tâm mới là điều kiện đủ cho hạnh phúc, cho chất lượng cuộc sống. Chạy theo ngũ dục mà đánh mất bình an bản thân và gia đình là một sự trả giá quá đắt, một sự thiếu trí tuệ. Cho nên, người Phật tử lập hạnh muốn ít và biết đủ không phải là sự thụ động, kìm hãm sự phát triển kinh tế của bản thân và xã hội mà đó chính là thiết lập sự thăng bằng giữa phát triển vật chất và tinh thần, hài hòa giữa sự thành đạt và bình an. 337 / Muốn tự học Phật nên bắt đầu từ đâu? Đạo Phật trên thế giới hiện có hai truyền thống lớn, đó là Phật giáo Nam tông (Nguyên thủy) và Phật giáo Bắc tông (Phát triển). Trong mỗi truyền thống lại có nhiều tông phái khác nhau. Về căn bản lịch sử và giáo lý, các truyền thống và tông phái Phật giáo đều giống nhau, song bên cạnh đó cũng có một số khác biệt. Đặc điểm của Phật giáo Việt Nam là dung hội cả hai truyền thống Phật giáo lớn của thế giới với nhiều tông phái, hệ phái khác nhau. Trước thực tiễn kinh sách Phật học và văn hóa Phật giáo vô cùng phong phú, đa dạng như hiện nay, người tự tìm hiểu Phật pháp sẽ lúng túng và mất thời gian nếu không được định hướng đúng đắn. Để tự tìm hiểu, nghiên cứu Phật pháp, thiển nghĩ trước nên tiếp cận từ lịch sử, giáo lý, sau mới đến văn hóa và các phương diện khác của Phật giáo. Về lịch sử Phật giáo, bạn có thể bắt đầu với sách Đức Phật lịch sử của Schumenn ( Trần Phương Lan dịch ), sách Đức Phật Gotama của Hajime Nakamura ( Trần Phương Lan dịch ). Đây là hai biên khảo tiêu biểu về lịch sử Đức Phật dựa vào văn bản học và khảo cổ học có uy tín trên thế giới. Bạn có thể tìm hiểu cuộc đời Đức Phật một cách thi vị hơn qua sách Đường xưa mây trắng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Ngoài ra, bạn nên tìm hiểu thêm về Phật giáo Việt Nam qua sách Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Lê Mạnh Thát và sách Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang ( bút hiệu của Thiền sư Thích Nhất Hạnh ). Về giáo lý căn bản, thiển nghĩ bạn nên đọc sách Đức Phật và Phật pháp của Trưởng lão Narada ( Phạm Kim Khánh dịch ), sách Trái tim của Bụt của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, sách Phật học phổ thông của Hòa thượng Thích Thiện Hoa, sách Phật học cơ bản ( Giáo trình do Ban Hoằng pháp Trung ương soạn ). Đặc biệt, nếu hội đủ duyên lành bạn nên đọc thẳng vào kinh tạng, Kinh tạng Nikaya ( gồm kinh Trường bộ, kinh Trung bộ, kinh Tương ưng bộ, kinh Tăng chi bộ, kinh Tiểu bộ ) và Kinh tạng A Hàm ( gồm kinh Trường A Hàm, kinh Trung A Hàm, kinh Tăng nhất A Hàm, kinh Tạp A Hàm ). Tất cả giáo lý căn bản, bao gồm cả pháp học lẫn pháp hành đều nằm trọn trong hai bộ kinh này. Về sau, tùy nhân duyên bạn có thể tìm hiểu thêm Luận tạng, kinh Đại thừa, các Sớ chú giải… Sách chuyên khảo về văn hóa Phật giáo từ Ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam… hiện có rất nhiều, bạn cứ tùy duyên tham khảo. Về thông tin, bạn có thể đọc và xem tin tức Phật giáo trên Giác Ngộ online ( giacngo.vn ) - Cơ quan ngôn luận của GHPGVN TP.HCM, phatgiao.org.vn - Cổng thông tin điện tử của Ban Thông tin - Truyền thông Trung ương; Phật sự online ( phatsuonline.com ) - Cổng thông tin Văn phòng Trung ương GHPGVN. Ngoài ra, thuvienhoasen.org ( do cư sĩ Tâm Diệu chủ trương ở nước ngoài ) cũng đăng tải khá nhiều kinh sách, các bài khảo luận, nghiên cứu Phật học với nhiều thể loại. Còn nhiều trang mạng Phật giáo khác nữa chuyên sâu về giáo lý và pháp hành của riêng từng tông phái, hệ phái, pháp môn. Sau khi học xong phần căn bản Phật pháp, bạn có thể tự tìm hiểu, nghiên cứu và học hỏi thêm ở các trang này. Những kinh sách hay trang mạng mà chúng tôi giới thiệu chỉ là gợi ý ban đầu, có tính tổng quan. Quan trọng nhất, bạn cần kết duyên với một số Vị Tăng ( Ni ) để được trực tiếp trợ duyên, hướng dẫn chi tiết trong quá trình tự học Phật. 338 / Bị tâm thần nhẹ có nên tiếp tục tu hành ? Đúng như bạn nói, theo quy định của Đức Phật, “người tâm lý có phần bất thường thì không được thọ giới”. Trong hoàn cảnh của bạn, nếu được bổn sư đồng ý, gia đình và Phật tử hỗ trợ kinh phí, thì bạn hãy ở chùa, tiếp tục điều trị bệnh cho đến khi lành hẳn mới xin phép thọ giới. Bệnh tật thì ai cũng có, nhưng bệnh tâm thần khi phát khởi có thể khiến bệnh nhân mất kiểm soát lời nói và hành vi. Những biểu hiện của căn bệnh này song hành với chiếc áo tu hành thì dễ dàng khiến cho người khác hiểu và đánh giá sai lệch về nhà chùa, chư Tăng nói chung, sẽ khiến bạn tổn phước và đạo pháp bị tổn thương nghiêm trọng. Do vậy, nếu không đủ duyên như đã nói thì bạn nên xin phép bổn sư trở về gia đình, làm người cư sĩ, tiếp tục trị bệnh. Khi nào hết bệnh thì bạn trở lại chùa xin được xuất gia. ......
@user-qv1yo3qe1q
@user-qv1yo3qe1q Ай бұрын
Trưởng Lão Ni Kệ - Kinh Tiểu Bộ - Khuddaka Nikàya : Chúng con thành tâm tri ân công đức của Qúy Ngài Đại Trưởng Lão, Trưởng Lão, Hòa Thượng, Sư Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thượng Minh Hạ Châu, Ni Trưởng, Thượng Tọa, Ni Sư, Đại Đức, Tỳ Kheo, Tỳ kheo Ariyasilo, Tỳ Kheo Ni, Sa Di, Sa Di Ni, Thức Xoa Ma Na, Tu Nữ, Phật Tử, Tứ Chúng, Tăng Đoàn, Đạo Tràng, Tinh Xá,……Của Phật Giáo Theravada, Nam Tông, Bắc Tông,……: ( đoạn 15 ) : Phẩm XI - Tập Mười Hai Kệ : 64 / Trưởng Lão Ni Uppalavanna : Trong thời Đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở Sàvatthi, con gái của Vị Trưởng Kho Bạc. Vì da nàng màu tim của sen xanh, nàng được gọi là Uppalavannà. Khi nàng đến tuổi trưởng thành, Vua và thường dân dành nhau đến cưới nàng. Vị trưởng kho bạc, không thể làm cho mọi người bằng lòng, nghĩ đến một kế để giải quyết. Ông cho gọi Uppalavannà và yêu cầu nàng xuất gia. Và vì căn cơ đã thuần thục, nàng nhận lời ngay, và được đưa đến tinh xá Tỷ Kheo Ni để xuất gia. Sau một thời gian, khi nàng phụ trách công việc dọn dẹp phòng làm lễ Bố tát, nàng thắp ngọn đèn quét phòng. Rồi lấy ngọn đèn làm tướng để thiền quán, không bao lâu nàng chứng được quả A La Hán. Nàng trở thành Vị thần thông đệ nhất. Và Bậc Ðạo Sư, ngồi giữa đại chúng ở Jetavana ấn chứng cho nàng là thần thông đệ nhất. Nàng suy tư trên quả an lạc của thiền và thánh quả, nói lên một số bài kệ. Ðây là những lời thốt ra tà miệng một Bà Mẹ trở thành tình địch với con gái của mình, đối với một người mà sau này trở thành Vị Tỷ Kheo tên là Tỷ Kheo ở trên bờ sông Hằng. Những bài kệ này nói lên sự nguy hiểm, sự hạ liệt và sự uế nhiễm của các dục : 224. Hai, Mẹ và con gái, Chúng tôi sống một chồng, Lời nàng đã nói lên Làm ta xúc động mạnh, Cảnh ngộ thật hy hữu, Làm tóc lông dựng ngược. 225. Ðáng ngán thay các dục, Bất tịnh, hôi, nhiều gai, Ở đây, Mẹ, con gái, Chúng tôi lấy một chồng. 226. Thấy nguy hiểm trong dục, Viễn ly an ổn vững Nàng xuất gia Vương Xá, Bỏ nhà, sống không nhà Sung sướng nàng nói lên quả chứng của mình : 227. Ta biết các đời trước, Thiên nhãn được thanh tịnh, Trí biết được tâm người, Nhĩ giới được trong sạch. 228. Ta chứng được thần thông, Lậu tận ta đạt được, Ta chứng sáu thắng trí, Lời Phật dạy, làm xong. Nàng hiện lên một thần thông với sự chấp thuận của Bậc Ðạo Sư và ghi như sau : 229. Do hiện hóa thần thông, Ta đến xe bốn ngựa, Ta đảnh lễ chân Phật, Thế giới chủ, quang vinh. Nàng bị Ác ma đến quấy phá, tại rừng cây Sàla và trách móc Ác ma : Ác ma : 230. Nàng đi đến gốc cây, Ðang nở hoa tuyệt đẹp, Nàng đến, đứng một mình, Dưới gốc cây có hoa ! Nàng đến chỉ một mình; Này kẻ dại khờ kia, Sao nàng lại không sợ, Có kẻ cám dỗ nàng ! Nàng : 231. Trăm ngàn người cám dỗ, Có đến đây như ngươi, Mảy lông ta không động, Ta không gì hoảng hốt, Ác ma, làm gì ta, Khi ngươi đến một mình. 232. Ta có thể biến mất, Hay vào bụng nhà ngươi, Ta đứng giữa hàng mi, Ngươi không thấy ta đứng. 233. Với tâm khéo nhiếp phục, Thần túc khéo tu trì, Sáu thắng trí, ta chứng, Lời Phật dạy, làm xong. 234. Các dục giống gươm giáo, Chém nát các uẩn ta, Những dục mà ngươi gọi, Là lạc thú cuộc đời. Ngày nay, dục lạc ấy. Với ta, không hấp dẫn. 235. Ở tất cả mọi nơi, Hỷ lạc được đoạn tận, Khối tối tăm mù ám, Ðã bị làm tan nát, Hỡi này kẻ Ác ma, Ngươi hãy biết như vậy, Ngươi chính là Ác ma, Ngươi đã bị bại trận. Phẩm XII - Tập Mười Sáu Kệ : 65 / Trưởng Lão Ni Punnà hay Punnikà ( Therì. 146 ) : Trong thời Đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở Sàvatthi, trong gia đình ông Anàthapindika ( Cấp Cô Ðộc ) con gái của một người nô lệ. Nàng chứng được quả Dự lưu khi nghe kinh Sư tử hống ( Trung Bộ Kinh, kinh số 11 hay 12 ). Về sau, sau khi nàng hóa độ được một Bà La Môn tin tưởng nhờ nước làm cho thanh tịnh và được cảm tình của ông chủ, nàng được thoát ly khỏi giới nô lệ, và với sự bằng lòng của ông chủ, nàng được xuất gia. Và nhờ triển khai thiền quán, nàng chứng quả A La Hán với hiểu pháp và hiểu nghĩa. Suy tư trên quả chứng của mình, nàng nói lên những bài kệ như sau : 236. Mùa đông ta mang nước, Luôn luôn xuống dòng nước, Ta sợ các hình phạt, Lời trách móc các bà. 237. Hỡi này Bà La Môn, Ngươi sợ hãi vì ai ? Luôn luôn xuống dòng nước, Tay chân run cầm cập. Ngươi phải chịu cảm thọ, Rét lạnh quá độ vậy ? 238. Và nàng có biết chăng Hỡi này Punnikà ? Sao nàng lại đến hỏi Vị làm các nghiệp lành, Vị đã chận đứng lại, Các nghiệp ác bất thiện. 239. Vị ấy già hay trẻ, Làm các nghiệp ác độc, Người ấy nhờ rảy nước, Ðược giải thoát ác nghiệp. 240. Ai nói với ngươi vậy, Kẻ ngu với kẻ ngu, Người tin nhờ rảy nước, Ðược giải thoát ác nghiệp. 241. Tất cả những ếch, rùa, Sẽ được lên cõi trời, Cùng các rắn cá sấu, Và các thủy vậy khác. 242. Kẻ giết bò giết heo, Kẻ đánh cá sanh thú, Các kẻ cướp giết người, Các người làm ác khác, Họ nhờ có rảy nước, Có thể thoát ác nghiệp. 243. Nếu những con sông này, Có thể làm trôi mất, Ác nghiệp xưa ngươi làm, Chúng cũng làm trôi luôn, Các thiện nghiệp ngươi làm, Khiến ngươi thành rỗng không. 244. Phạm Chí vì cái gì, Ngươi sợ phải xuống nước, Cái ấy chớ có làm, Chớ để lạnh hại da. 245. Ta đi theo tà đạo, Nàng hướng ta Thánh đạo, Thưa nàng ta cho nàng, Cái áo thấm nước này. 246. Ngươi giữ cái áo lại, Ta không muốn cái áo ! Nếu ngươi sợ đau khổ, Nếu ngươi không thích khổ. 247. Chớ làm các điều ác, Công khai hay kín đáo, Nếu ngươi làm sẽ làm, Làm các điều ác nghiệp. 248. Ngươi không thoát đau khổ, Dầu thấy đến, ngươi chạy, Nếu ngươi sợ đau khổ, Không ưa thích đau khổ. 249. Hãy đến quy y Phật, Quy y Pháp và Tăng, Hãy chấp nhận Giới Luật, Ngươi sẽ được lợi ích. 250. Ta đến quy y Phật, Quy y Pháp và Tăng, Ta chấp nhận Giới Luật, Ta sẽ được lợi ích, 251. Trước ta là bà con, Với tộc họ Phạm Thiên, Nay ta là Phạm Chí, Chân thật là như vậy, Ta chứng ngộ Ba minh, Ðầy đủ trí Vệ đà, An ổn đến với ta, Tâm tư được gột sạch. Vị Bà La Môn quy y và thọ năm giới. Về sau được nghe Bậc Ðạo Sư thuyết pháp trở thành một thiện nam và xuất gia. Nhờ tinh cần tu tập không bao lâu chứng được Ba minh, và nghĩ đến quả chứng của mình, nói lên bài kệ này. Và Vị Tỷ Kheo Ni, lập lại bài kệ ấy trở thành bài kệ của mình. ......
@user-qv1yo3qe1q
@user-qv1yo3qe1q 29 күн бұрын
Phật Pháp và Cuộc Sống : Tất cả các Pháp đều là Phật Pháp : ( đoạn 78 ) : 220 / Chuyển hóa bệnh tật theo quan điểm Phật pháp Bệnh tật, theo quan điểm Phật pháp là do thừa tự các nghiệp xấu ở quá khứ. Nghiệp xấu ở đây chủ yếu là do não hại, đánh đập, hành hạ các loài hữu tình, không tu dưỡng tâm từ ( Kinh Trung bộ, kinh Tiểu nghiệp phân biệt, số 135 ). Nghiệp nhân gây bệnh tật có cũ và mới. Nghiệp cũ thì như đã nói, nghiệp mới có thể là tiếp tục bức hại sinh vật hoặc do các hành vi lối sống không lành mạnh góp phần gây ra tật bệnh. Bệnh do nghiệp mà sinh, muốn hết bệnh thì phải chuyển nghiệp. Đi khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế hợp pháp là cách chuyển nghiệp đầu tiên. Tại đây, bác sĩ sẽ chỉ ra bệnh trạng, các nguyên nhân gây bệnh ( di truyền, ăn uống, lối sống v.v… ), cách chữa lành bệnh. Tuân thủ theo phác đồ điều trị và các hướng dẫn của bác sĩ chính là cách chuyển hóa bệnh nghiệp. Tuy nhiên, ngành y khoa không phải toàn năng nên có bệnh thì chữa lành, có bệnh chỉ chữa bớt vài phần, có bệnh thì chờ… nghiên cứu thêm. Thế nên, người Phật tử khi mang bệnh, ngoài trị liệu theo y khoa cần gia tâm sám hối, làm thiện để hồi hướng công đức, đây là cách chuyển nghiệp tiếp theo. Sám hối để tiêu trừ oan nghiệp đã tạo trong quá khứ. Làm thiện để vun bồi thêm phước báo hiện tại. Khi tội diệt, phước sinh thì góp phần tích cực cho việc chuyển hóa bệnh tật và các điều không như ý khác trong cuộc sống. Oan gia trái chủ là cách nói trong dân gian, chỉ cho nhân quả của các nghiệp cũ. Không nên hiểu oan gia trái chủ theo kiểu “ vong theo báo oán ” rồi cầu cúng để xin giải nghiệp. Tùy theo mức độ nặng nhẹ của nghiệp cũ và nghiệp quả xấu ấy đã chín muồi hay chưa để biết quá trình chuyển hóa bệnh nghiệp thành công được nhiều hay ít ( bệnh có chữa lành hay không ). Bởi khi nghiệp quả xấu đã đến gần với cường độ mạnh mẽ thì rất khó để hóa giải, nói cách khác là không ai có thể cứu được. Người Phật tử có chánh kiến cần nhận thức các vấn đề liên quan đến bệnh nghiệp theo quy luật nhân - duyên - quả. Tránh các niềm tin sai lạc, tà kiến, rơi vào mê tín, cầu cúng để cầu mong khỏi bệnh chỉ tiền mất tật mang. 221 / Làm nghề chăn nuôi có tạo nghiệp sát ? Nghiệp sát được tạo ra khi hội đủ năm yếu tố : Có tâm sát hại, có đối tượng để giết ( người hay vật ), tưởng đó là đối tượng, dùng các phương tiện giết, đối tượng bị giết chết. Bạn làm công việc chuyên môn như nuôi vật, chữa bệnh, phối giống v.v... trong trang trại, chắc chắn bạn không tạo nghiệp sát ( biệt nghiệp ). Tuy vậy, về phương diện cộng nghiệp giết hại thì hầu như ít ai có thể tránh khỏi, không nhiều thì ít, không nặng thì nhẹ. Cộng nghiệp giết hại phần lớn được tạo ra theo cách gián tiếp nên sám hối được và chuyển hóa dễ dàng nếu cố gắng tu tập, tích phước, hành thiện. Vì thế bạn hãy yên tâm với công việc chuyên môn của mình. 222 / Hiểu đúng về nhân quả Kinh Nhân quả ba đời ( Tam thế nhân quả kinh ) là kinh điển Hán truyền, có nhiều bản Việt dịch, hiện được lưu hành rộng rãi trong và ngoài nước. Trong Hán tạng, kinh này có nhiều dị bản, đơn cử như bản đời Đường, Sa Môn Già Phạm Đạt Ma ( dịch từ Phạn sang Hán ); bản đời Minh của Lâm Thục Quyên. Hiện có nghi vấn kinh Nhân quả ba đời không phải do Phật Thích Ca thuyết giảng mà được kết tập rất muộn về sau. Trong danh mục 129 ngụy kinh do chùa Đông Lâm ( Lô Sơn, Trung Quốc ) công bố có kinh này, xếp thứ 125 (www.fodizi.net/qt/qita/12009.html). Xác định kinh này là do Phật nói hay không, là chơn kinh hay ngụy kinh là thẩm quyền của Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam. Ở đây chúng ta chỉ tìm hiểu một số cấu trúc và tương quan nhân quả mà bản kinh này đề cập. Kinh Nhân quả ba đời có cấu trúc nhân quả đơn tuyến. Nghĩa là do đời trước tạo nhân gì, đời này nhận quả gì. Về căn bản, cấu trúc nhân quả này không sai nhưng xét kỹ về tương quan nhân quả thì không hoàn toàn đúng. Ngay trong Kinh tạng Pali, một số kinh cũng có cấu trúc nhân quả dạng này. Kinh Tiểu nghiệp phân biệt ( Trung bộ kinh, số 135 ), Đức Phật cũng nói đến một số nhân và quả dạng đơn tuyến, đơn cử như đời trước sát sinh thì đời này đoản mạng, nếu không sát sinh được trường thọ v.v… Thiết nghĩ, thuyết minh cấu trúc nhân quả đơn tuyến là một cách khái quát về nhân quả, mang ý nghĩa giáo dục đạo đức, giúp cho người nghe dễ hiểu và tin về nhân quả hơn. Thực chất thì nhân quả có cấu trúc đa tuyến, nói đúng là nhân - duyên - quả. Nhân quá khứ thì cố định, duyên quá khứ hoặc hiện tại thì linh động, vì thế quả hiện tại cũng biến động theo, lệch hướng so với nhân. Mặt khác, nhân - duyên - quả của tiến trình này lại làm nhân - duyên - quả của các tiến trình khác. Chúng tương tác, ảnh hưởng lẫn nhau vô cùng vô tận trong quá trình vận hành để trổ quả trong hiện tại. Thành ra nói “ nhân như thế nào thì quả như thế nấy ” không hoàn toàn đúng với vận hành nhân - duyên - quả. Thế nên, cần nhận thức nhân quả bằng tuệ giác duyên sinh, thấy rõ tính “ trùng trùng duyên khởi ” của vận hành nhân quả. Nhờ hiểu nhân quả với tuệ giác duyên sinh nên chúng ta mới có thể sám hối và chuyển nghiệp được. Bản chất của nhân quả là vô ngã. Nếu không tu tập thì đúng nhân nào quả nấy. Còn nếu có tu tập chuyển hóa tốt thì các nhân xấu trước đây bị lệch hướng, thậm chí bị triệt tiêu, được hóa giải hoàn toàn. Đây chính là cơ sở để người tu thành tựu đạo quả ngay trong đời này. ......
@user-qv1yo3qe1q
@user-qv1yo3qe1q 25 күн бұрын
Phật Pháp và Cuộc Sống : Tất cả các Pháp đều là Phật Pháp : Chúng sanh đa bệnh - Phật Pháp đa phương : ( đoạn 208 ) : 644 / Không phạm tội “ Hủy hoại kinh sách ” Biên chép kinh sách, Phật hiệu hay thần chú ra giấy để lưu trữ, học tập là một trong những việc làm phổ biến của Tăng Ni, Phật tử. Dĩ nhiên trong quá trình biên chép không thể tránh khỏi sai sót hoặc cần phải xử lý bản thảo thì những trang viết hoặc quyển kinh sách đó cần được mang đi tịnh hóa. Tịnh hóa là cách thức xử lý các kinh sách ( văn hóa phẩm Phật giáo nói chung ) đã hư cũ bằng cách chọn một nơi sạch sẽ đốt cháy hoàn toàn. Sau khi lửa tắt hết, dùng nước sạch dội lên tro tàn khiến không còn bất cứ dấu vết nào nữa. Trong chùa hay tại tư gia các Phật tử, sau khi học tập, sử dụng xong những trang hay quyển tập vở dùng ghi chép kinh điển đều được mang đi tịnh hóa đúng như pháp. Chúng tôi thiết nghĩ, việc bạn dọn dẹp bàn làm việc và vô tình xé những tờ giấy ghi chép kinh chú chép sai bị loại bỏ trước đó là một việc bình thường, không hề phạm tội “ hủy hoại kinh sách ”. Do không phạm tội nên cũng không hề bị đọa. Trái lại, bạn đã có sự lưu tâm đặc biệt với vấn đề kính trọng Pháp bảo là điều đáng trân trọng. Vì vậy, bạn hãy yên tâm tu học đồng thời luôn giữ tâm kính trọng Pháp bảo để vun bồi và tăng trưởng phước đức. 645 / Cúng chay, đãi mặn Dĩ nhiên là cúng chay và làm tiệc chay đãi khách trong các ngày giỗ ( lễ ) sẽ tốt hơn nhưng khi đối diện với thực tiễn thì không phải gia đình Phật tử nào cũng làm được. Bởi lẽ, giỗ quảy thường là việc chung của các con cháu vốn dĩ “ chín người mười ý ”, cộng thêm khách mời cùng bà con lối xóm cũng không nhiều người quen và cảm nhận hết giá trị của các món chay. Do đó, người Phật tử nên vận dụng tinh thần “ tùy duyên ”, cúng chay và đãi chay là rất tốt, trong những trường hợp khác thiếu duyên hơn thì vẫn cúng chay còn đãi khách thì tùy thực tiễn, chay hoặc mặn đều được. Miễn sao vào những dịp giỗ quảy mọi người trong gia đình hòa hợp và hiếu thuận, khách bạn hoan hỷ. Các Phật tử hãy nêu cao tinh thần hòa hiếu, không nên vì vấn đề “ chay - mặn ” mà dẫn đến căng thẳng, xung đột, bất hòa trong ngày giỗ. Nếu đãi tiệc mặn thì việc cần lưu ý nhất là tránh trực tiếp giết hại chúng sanh. Có một điều rất quan trọng khác mà chúng ta ít để ý đó là việc cúng và đãi tiệc mặn ( có trực tiếp giết thịt chúng sanh ) chẳng những ảnh hưởng không tốt đến người mất mà còn liên quan ảnh hưởng xấu đến con cháu hiện đang tạo nghiệp. Khi người thân mới mất, trong vòng dưới 49 ngày, việc tổ chức tang lễ của thân nhân có liên quan đến sát sanh, thì ngoài việc thân nhân tạo ác nghiệp, nghiệp xấu ấy còn tác động và ảnh hưởng khá lớn đến xu hướng tái sanh của hương linh. Nhưng sau 49 ngày khi thần thức hầu hết đã tái sanh, vào những dịp giỗ quảy họ nếu thân nhân tổ chức cúng và đãi mặn có trực tiếp giết thịt thì người bị tội nghiệp nặng nề không phải hương linh mà chính là con cháu hiện tiền. Vì thế, những bận tâm cho hương linh, sợ họ cộng nghiệp giết hại là điều tốt nhưng lo lắng về vấn đề tạo ác nghiệp của chính mình mới là điều cần thiết và quan trọng nhất. Nên không chỉ trong những dịp tang lễ hay giỗ quảy mà mọi lúc mọi nơi trong đời sống hàng ngày, người Phật tử luôn chú tâm tỉnh giác để không tạo nghiệp sát sanh. Đối với những người chưa ăn chay được nhiều ngày trong một tháng thì cứ ăn uống bình thường nhưng quyết không chính tay mình tạo nghiệp giết hại. 646 / Đọc chú " Vãng sanh " trước khi ăn, được không ? Thực tập ăn chay đúng cách rất tốt cho sức khỏe và trưởng dưỡng đạo tâm của người Phật tử. Tuy vậy, tùy theo hoàn cảnh của mỗi người mà điều chỉnh hạnh lành này sao cho phù hợp với thực tiễn. Một người Phật tử sau khi quy y Tam bảo luôn được Chư Tăng Ni khuyến khích thực hành ăn chay một tháng ít nhất là 02 ngày, nhiều hơn thì càng tốt chứ không hề bắt buộc trường chay. Do vậy, vì hoàn cảnh chưa cho phép thì bạn nên ăn chay mỗi tháng 02 ( hoặc 04 ) ngày thôi, còn những ngày khác thì hãy ăn uống bình thường. Người Phật tử khi phát tâm giữ giới không sát sinh luôn kiểm soát thân tâm để “ không trực tiếp giết hại, không xúi bảo người giết hại, không thấy sự giết hại mà sanh tâm vui mừng ”. Như vậy, trong quan hệ nhân - duyên - quả chằng chịt, thì việc không ăn chay của bạn có liên quan đến nghiệp sát sanh của người khác nhưng bạn chỉ “ khuyết ” mà không “ phạm ” ( dù gián tiếp ) giới sát sanh. Cho nên, dù chưa ăn chay được như ý nhưng bạn cũng không nên quá mang nặng mặc cảm tội lỗi về việc ăn uống của mình. Chính Chư Tăng trong truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy ( Nam Tông ) hiện nay đi khất thực được thí chủ cúng gì thì ăn nấy, không phân biệt chay mặn mà vẫn trọn vẹn với Giới Luật không giết hại chúng sanh do Đức Phật chế định. Nên thiết nghĩ, trước khi ăn cơm dù chay hay mặn, bạn không nên đọc thầm bài chú “ Vãng sanh ” và niệm thầm danh hiệu Phật A Di Đà để cầu siêu mà nên nhiếp tâm thầm niệm danh hiệu Phật Thích Ca ( niệm ân Tam bảo ), kế đến quán tưởng đến công ơn Cha Mẹ và tất cả mọi người đã lao nhọc để tạo ra bữa ăn này. Ăn cơm ( hay sử dụng các vật khác ) với tinh thần biết ơn sâu sắc và khởi tâm đền đáp mọi người, tri ân cuộc đời bằng sự nỗ lực học tập, lao động chân chính của mình chính là tinh thần chánh niệm trong ăn uống, tiêu thụ hàng ngày của người Phật tử. 647 / “ Có Phật A Di Đà thật không ? ” Đúng là trong Tam tạng kinh điển của Phật Giáo Nguyên thủy không nhắc tới Phật A Di Đà và các chùa, Thiền viện theo truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy hiện nay cũng không thờ Phật A Di Đà cùng Chư Vị Bồ Tát như Quán Âm, Địa Tạng v.v… Đây là quan điểm của Phật Giáo Nguyên Thủy mà chúng ta cần tuyệt đối tôn trọng. Tuy vậy, trong truyền thống Phật Giáo Phát Triển ( Bắc Tông ) thì tín niệm về Phật A Di Đà cùng Chư Vị Bồ Tát rất phổ biến, nhất là Tịnh Độ Tông. Phật A Di Đà là một trong những Vị Phật có nhân duyên cứu độ chúng sanh trong cõi Ta Bà sanh về Cực Lạc, do chính Phật Thích Ca giới thiệu. Phật tử chúng ta đã tin Phật Thích Ca thì chắc chắn sẽ tín thuận những gì Phật Thích Ca giảng nói. Do vậy, sẽ thừa khi hỏi “ Có Phật A Di Đà thật không ? ”. Đối với Kinh Vô Lượng Thọ cũng vậy. Kinh này hiện có mặt trong Tam tạng kinh điển của Phật Giáo Bắc Tông, là một trong ba kinh văn căn bản được các Phật tử Tịnh Độ Tông nhiệt tâm tin tưởng, phụng hành. Đây cũng là quan điểm của Phật Giáo Phát Triển mà chúng ta cần tuyệt đối tôn trọng. Như vậy, hiện nay trên thế giới có hai truyền thống Phật Giáo lớn ( Nguyên Thủy và Phát Triển ) đang tồn tại song hành. Ở Việt Nam lại càng đặc biệt hơn khi có mặt đầy đủ cả hai truyền thống Phật giáo này. Là Phật tử chân chính, chúng ta cần tìm hiểu để học tập những điểm tương đồng giữa hai truyền thống đồng thời tuyệt đối tôn trọng những điểm dị biệt nếu có. ......
@user-qv1yo3qe1q
@user-qv1yo3qe1q Ай бұрын
Trưởng Lão Tăng Kệ - Kinh Tiểu Bộ - Khuddaka Nikàya : Chúng con thành tâm tri ân công đức của Qúy Ngài Đại Trưởng Lão, Trưởng Lão, Hòa Thượng, Sư Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thượng Minh Hạ Châu, Ni Trưởng, Thượng Tọa, Ni Sư, Đại Đức, Tỳ Kheo, Tỳ kheo Ariyasilo, Tỳ Kheo Ni, Sa Di, Sa Di Ni, Thức Xoa Ma Na, Tu Nữ, Phật Tử, Tứ Chúng, Tăng Đoàn, Đạo Tràng, Tinh Xá,……Của Phật Giáo Theravada, Nam Tông, Bắc Tông,……: ( đoạn 32 ) : 200 / Tôn Giả Nadikassapa ( Thera. 39 ) : Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh trong một gia đình Bà La Môn ở Magadha ( Ma Kiệt Đà ), là anh của Kassapa. Ngài thiên hẳn đời sống xuất gia, không ưa thích đời sống gia đình, và Ngài trở thành một ẩn sĩ. Với ba trăm đồ chúng, Ngài sống một đời sống ẩn sĩ trên bờ sông Neranjarà ( Ni Liên Thiền ), và do vậy Ngài được biết và được gọi là Kassapa ở bên sông ( Nadi - Kassapa ). Ngài được Thế Tôn giáo hóa cùng với hai anh em, như đã được ghi trong Luật tạng. Sau khi Thế Tôn thuyết Kinh Lửa Bốc Cháy, Ngài chứng quả A La Hán. Sau đó, suy tư trên thiền chứng, Ngài nói lên chánh trí của mình, bằng cách nhổ lên các sai lầm : Thật lợi ích cho ta Ðức Phật đến tại đây, Ðến con sông tên gọi Sông Nê Răn Ja Ra, Ta nghe pháp Ngài giảng Ðoạn tận các tà kiến Ta hành lễ tế tự, Ðọc cao lời tế lễ, Ta đốt lên lửa thiêng, Ðổ cúng dường vào lửa, Nghĩ rằng ta thanh tịnh, Ta thật mù, phàm phu. Lang thang rừng tà kiến, Bị giới cấm, mờ mắt, Không tịnh, nghĩ thanh tịnh, Mù lòa, ta không thấy Ta đoạn tận tà kiến, Mọi sanh hữu phá tan, Ta đốt lên ngọn lửa, Xứng đáng được cúng dường, Ta cúi mình đảnh lễ, Bậc Như Lai Ðiều Ngự. Mọi si mê, ta đoạn, Hữu ái được phá hủy, Ðường sanh tử đoạn tận, Nay không còn tái sanh. 201 / Tôn Giả Gayà - Kassapa ( Thera. 39 ) : Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh trong một gia đình Bà La Môn, câu chuyện Ngài giống như câu chuyện của Nadì - Kassapa, chỉ khác Ngài chỉ có hai trăm đệ tử và sống ở Gayà, Ngài nói lên chánh trí bằng cách tán thán tẩy sạch các điều ác như sau : Buổi sáng, trưa, buổi chiều, Ba lần trong một ngày, Ta xuống dòng Gà Yà, Sông Ga Ya Phay Gu. Các điều ác, ta làm Trong các đời sống trước, Nay đây ta rửa sạch, Xưa ta tin là vậy. Nghe lời nói khéo giảng, Con đường đủ pháp nghĩa, Với ý nghĩa chân thật, Ta như lý quán sát. Ta tắm sạch mọi ác, Ta không uế, trong sạch. Ta trong sạch thuần tịnh, Thừa tự bậc trong sạch, Ta chính là con trai, Con chính tông Đức Phật. Lặn vào dòng Tám chánh, Ta gột sạch mọi ác, Ba minh ta đạt được, Lời Phật dạy làm xong. 202 / Tôn Giả Vakkali ( Thera. 39 ) : Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh ở Sàvatthi, trong một dòng họ Bà La Môn và được gọi tên Vakkali. Khi đến tuổi trưởng thành, và học xong ba tập Vệ đà, trở thành thuần thục trong những thành tích Bà La Môn, Ngài thấy Bậc Ðạo Sư, Ngài nhìn không chán thân hình tuyệt vời của Đức Phật, và Ngài đi theo Bậc Ðạo Sư. Khi Ngài trở về nhà, Ngài nghĩ nếu ở lại nhà, Ngài sẽ không có dịp luôn luôn thấy được Đức Phật. Do vậy, Ngài xuất gia, và từ khi ăn uống và tắm rửa, Ngài để toàn thì giờ để chiêm ngưỡng Đức Phật. Bậc Ðạo Sư, chờ đợi thiền quán của Ngài được chín muồi, nên trong một thời gian dài, Đức Phật không nói gì. Một hôm Đức Phật hỏi : “ Này Vakkali, thân bất tịnh này mà Thầy thấy, đối với Thầy như thế nào ? Ai thấy Pháp người ấy tức thấy Ta. Vì rằng thấy Pháp tức là thấy Ta, và thấy ta tức là thấy Pháp “. Nghe lời nói Đức Phật, Ngài không chiêm ngưỡng thân Đức Phật nữa, nhưng Ngài chưa bỏ đi xa được. Bậc Ðạo Sư nghĩ rằng : “ Tỷ Kheo này, nếu không được xúc động mạnh, sẽ không thức tỉnh “, nên vào cuối ngày an cư mùa mưa, Đức Phật nói : Này Vakkali, hãy đi đi “. Nghe Bậc Ðạo Sư nói vậy, Ngài tự nghĩ Ngài phải đi, nhưng nghĩ rằng đời Ngài có ý nghĩa gì, nếu không được gặp Bậc Ðạo Sư, nên Ngài có ý định leo lên núi Linh Thứu để gieo mình xuống vực núi tự tử. Ðức Phật biết được Vakkali có ý định như vậy, nên sợ Ngài phá hoại những điều kiện chứng được thánh quả, nên hiện ra trước mặt Ngài và đọc lên bài kệ : Tỷ Kheo nhiều hân hoan, Tịnh tín giáo pháp Phật, Chứng cảnh giới tịch tịnh, Các hạnh an tịnh lạc. Ðức Phật đưa tay và nói : “ Hãy đến, này Tỷ Kheo ! “. Vakkali rất lấy làm sung sướng được nghe lời Phật dạy, thấy được điều gì mình đang làm, đứng trên hư không suy tư đến lời Phật dạy, chứng quả A La Hán với sự hiểu biết về nghĩa và về pháp. ( Ðây là những tài liệu được tập sớ của bộ Anguttara Nikàya và tập sớ của Dhammapaca ghi chép lại ). Theo những tài liệu khác, Vakkali chưa chứng quả A La Hán, sau khi nghe lời dạy của Bậc Ðạo Sư, Ngài ở trên núi Linh Thứu, phát triển thiền quán. Thế Tôn cho Ngài một đề tài tu tập, nhưng vì quá đói và bị tê liệt nên Ngài không chứng quả được. Biết vậy, Thế Tôn nói với Ngài như sau : Bị bệnh gió chi phối, Thầy sống trong rừng sâu, Chỗ khất thực hạn chế, Thân gầy mòn ốm yếu, Tỷ Kheo sẽ làm gì ? Với thân thể như vậy ? Vị Trưởng Lão nói lên sự hân hoan thường xuyên của mình, nhờ được sự an lạc siêu nhân : Thân con được tràn ngập, Với hỷ lạc tỏa rộng, Dầu có bị gầy ốm, Con sẽ sống trong rừng. Tu tập Bốn niệm xứ, Năm căn và Năm lực, Tu tập các Giác chi, Con sẽ sống trong rừng. Con thấy bạn đồng tu, Sống hòa hiệp, dõng mãnh, Luôn kiên trì tinh tấn, Con sẽ sống trong rừng. Tùy niệm Phật thiền định, Bậc Tối Thượng Ðiều Ngự, Ngày đêm không biếng nhác, Con sẽ sống trong rừng. Khi nói vậy, Ngài phát triển thiền quán và ngay khi ấy chứng quả A La Hán. 203 / Tôn Giả Vigitasena ( Thera. 39 ) : Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh ra trong một gia đình huấn luyện voi ở nước Kosala, và được đặt tên là Vigitasena. Những người Cậu bên Ngoại, Sena và Upasena cả hai đã xuất gia và chứng quả A La Hán. Vigitasena sau khi đã thuần thục nghề của mình, thấy thần thông song hành của Bậc Ðạo Sư khởi lòng tin, và theo bản năng tự nhiên, xin xuất gia dưới sự hướng dẫn của các người Cậu. Nhờ các người Cậu giảng dạy, Ngài đạt đến thiền quán, nhưng tâm trí ngài thiên về lý luận chạy theo những vật bên ngoài, nên Ngài giảng dạy cho tâm trí Ngài như sau : Ta sẽ chế ngự ngươi, Như cửa khóa ngăn voi, Ta sẽ không thúc ngươi, Này tâm trong điều ác, Ngươi chính là lưới dục, Ngươi do thân sanh ra. Chế ngự ngươi không đi, Như voi, không cửa mở, Này tâm, kẻ phù thủy, Dầu ngươi cố gắng mãi, Ngươi không còn lang thang, Ưa thích làm điều ác. Như người cầm câu móc, Ngăn mãi voi chưa thuần, Như người dùng sức mạnh, Cải hóa kẻ không muốn, Cũng vậy đối với ngươi, Ta sẽ cải hóa ngươi. Như bánh xe tuyệt hảo, Khéo huấn luyện ngựa hay, Cũng vậy ta điều ngươi, Dựa lên trên Năm lực. Ta sẽ cột chặt ngươi, Với chánh niệm vững chắc, Tự mình đã chế ngự, Ta sẽ chế ngự ngươi, Nhờ sức nặng tinh tấn, Ngươi được ta áp lực, Do vậy, hỡi này tâm, Ngươi sẽ không xa ta. ......
@user-qv1yo3qe1q
@user-qv1yo3qe1q Ай бұрын
Trưởng Lão Tăng Kệ - Kinh Tiểu Bộ - Khuddaka Nikàya : Chúng con thành tâm tri ân công đức của Qúy Ngài Đại Trưởng Lão, Trưởng Lão, Hòa Thượng, Sư Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thượng Minh Hạ Châu, Ni Trưởng, Thượng Tọa, Ni Sư, Đại Đức, Tỳ Kheo, Tỳ kheo Ariyasilo, Tỳ Kheo Ni, Sa Di, Sa Di Ni, Thức Xoa Ma Na, Tu Nữ, Phật Tử, Tứ Chúng, Tăng Đoàn, Đạo Tràng, Tinh Xá,……Của Phật Giáo Theravada, Nam Tông, Bắc Tông,……: ( đoạn 33 ) : 204 / Tôn Giả Yasadatta ( Thera. 40 ) : Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh trong dòng họ Vua Malla, được đặt tên là Yasadatta, Ngài được học ở Takkasilà. Sau khi đi du hành vói Du sĩ Sabhiya, cả hai đến Sàvatthi, tại đây hỏi Thế Tôn một số câu hỏi. Yasadatta ngồi nghe những câu trả lời, ý muốn ưa chỉ trích : “ Ta sẽ nêu lên những khuyết điểm trong những câu trả lời của Sa Môn Gotama “. Thế Tôn hiểu tâm tư của Yasadatta, nên sau khi nói Kinh Sabhiya, Thế Tôn giáo huấn Yasadatta như sau : Với tâm, muốn chỉ trích, Kẻ ngu nghe lời dạy Của bậc đã thắng trận, Người ấy, thái độ vậy, Rất xa vời Chánh pháp, Như đất xa bầu trời. Với tâm muốn chỉ trích, Kẻ ngu nghe lời dạy Của Bậc đã chiến thắng, Người ấy thái độ vậy, Tổn giảm xa Chánh pháp, Như trăng nửa tháng đen. Với tâm muốn chỉ trích, Kẻ ngu nghe lời dạy Của Bậc đã chiến thắng, Người ấy thái độ vậy, Khô cạn trong diệu pháp, Như cá mắc nước cạn. Với tâm muốn chỉ trích, Kẻ ngu nghe lời dạy Của Bậc đã chiến thắng, Người ấy thái độ vậy, Không lớn trong diệu pháp, Như giống thối trong ruộng. Ai tâm tư thỏa mãn, Nghe Bậc Thánh giảng dạy, Từ bỏ mọi lậu hoặc, Chứng ngộ không dao động, Ðạt tịch tịnh tối thượng, Chứng Niết Bàn vô lậu. 205 / Tôn Giả Sonakutikanna ( Thera. 40 ) : Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh ở xứ Avanti, trong một gia đình rất giàu có, và được đặt tên là Sona. Vì đeo một bông tai đắt giá, Ngài cũng được gọi là Koti hay Kutikanna ( người có lỗ tai đắt giá ). Lớn lên, Ngài trở thành một điền chủ, và khi Trưởng Lão Mahà Kaccàna ở gần bên nhà, Ngài cung cấp các vật dụng nhu yếu, nghe Chánh pháp, cuối cùng cảm thấy dao động, xin xuất gia với Trưởng Lão Kaccàna. Rủ thêm mười người một cách khó khăn, Ngài xin phép Vị Trưởng Lão đi đến Sàvatthi để yết kiến Thế Tôn. Ðược phép ngủ đêm trong chái phòng Đức Phật, và buổi sáng được mời tụng đọc, Ngài được khen khi đọc mười sáu Athaka. Khi đọc đến câu : “ Thấy sự nguy hiểm của một đời thế tục “, Ngài phát triển thiền quán và chứng quả A La Hán. Khi Ngài được Đức Bổn Sư bằng lòng về ba vấn đề mà Vị Trưởng Lão Mahà Kaccàna giao cho Ngài hỏi, Ngài trở về chỗ cũ và thưa lại với Bậc giáo thọ sư của mình ( Sự kiện này được ghi chép đầy đủ trong tập Udàna và tập sớ Anguttara, nhưng ở đây lại nói Ngài chứng quả A La Hán khi còn học tập với Vị giáo thọ sư của mình ). Rồi, trong khi sống, thọ hưởng an lạc giải thoát, Ngài ôn lại sự thanh đạt của mình, và với tâm hoan hỷ, Ngài nói lên những bài kệ như sau : Ta thọ được đại giới, Ta giải thoát vô lậu, Thế Tôn, ta được thấy, Ta sống chung tinh xá. Thế Tôn, trải nhiều ngày Sống ngay ở ngoài trời, Ðạo Sư khéo an trú, Rồi mới vào tịnh xá. Trải y Tăng già lê Gotama nằm xuống, Như sư tử hang đá, Ðoạn tận mọi sợ hãi. Khéo lựa lời tốt lành, Ðệ tử Bậc Chánh Giác, Trước Đức Phật tuyệt hảo, Sona thuyết diệu pháp. Liễu Tri Năm thủ uẩn, Tu tập con đường Thánh Ðạt an tịnh tối thượng, Chứng Niết Bàn vô lậu. 206 / Tôn Giả Kosiya ( Thera. 41 ) : Trong thời Ðức Phật hiện tại, Ngài sanh trong một gia đình Bà La Môn ở Magadha và được đặt tên là Sona. Khi đến tuổi trưởng thành, Ngài hay đến nghe Trưởng Lão Sàriputta thuyết pháp, tin tưởng ở nơi giáo lý, xuất gia và không bao lâu chứng quả A La Hán. Rồi ôn lại quá trình giải thoát của mình, Ngài tán thán đức hạnh và sức mạnh quyết định hành thiện của các Bậc Thánh với những bài kệ sau đây : Ai hiểu những lời dạy Của các Bậc Ðạo Sư, Bậc trí sống an trú, Phát sanh lòng ái niệm, Bậc trí có lòng tin, Biết thù thắng trong Pháp. Vị khi nạn lớn khởi, Suy tư không tê liệt, Bậc trí có kiên trì, Biết thù thắng trong Pháp. Ai vững trú như biển, Không dục, trí tuệ sâu, Thấy rõ chân nghĩa lý, Tế nhị và vi diệu, Bậc trí trú bất động, Biết thù thắng trong Pháp. Bậc nghe nhiều, trì Pháp, Hành pháp và Tùy pháp, Bậc trí gọi như thị, Biết thù thắng trong Pháp. Ai hiểu nghĩa lời nói, Biết nghĩa, hành như thật, Bậc trí gọi nội nghĩa, Biết thù thắng trong Pháp. Chương VI - Phẩm Sáu Kệ : Ðảnh Lễ Ðức Thế Tôn Bậc A La Hán Chánh Ðẳng Giác : 207 / Tôn Giả Uruvelà Kassapa ( Thera. 42 ) : Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh làm anh cả trong ba anh em một gia đình Bà La Môn tên Kassapa, và cả ba đều học thông ba tập Vệ đà. Ba anh em có đến năm trăm, ba trăm và hai trăm thanh niên đệ tử vì không tìm được chân lý trong kinh điển của họ, chỉ tìm thấy những vấn đề thế tục, nên họ từ bỏ gia đình và trở thành những ẩn sĩ. Cả ba được đặt tên tùy theo chỗ ở của mỗi Vị, và Ngài được gọi là Uruvelà Kassapa vì Ngài ở Uruvelà. Một số sự kiện đã xảy ra, Vị Bồ Tát xuất gia, chuyển Pháp luân, năm Vị Trưởng Lão chứng quả A La Hán, năm mươi bạn đứng đầu là Yasa được hóa độ, sự xuất phát của Vị A La Hán để thuyết pháp độ sanh, sự hóa độ ba mươi người bạn giàu có, Bậc Ðạo Sư đi đến Uruvelà. Khi Thế Tôn hiện ra nhiều thần thông bắt đầu với sự nhiếp phục con rắn, Kassapa khởi lòng tin và xuất gia, hai người em cũng bắt chước người anh cả. Thế Tôn giảng kinh AAdittapariyàya cho ba anh em Kassapa với một ngàn đệ tử và khiến mọi người chứng quả A La Hán. Uruvelà Kassapa ôn lại sự thành quả của mình, nói lên chánh trí với những bài kệ như sau : Thấy được các thần thông Gotama danh tiếng, Nhưng ta chưa thần phục, Bị ganh, mạn lừa dối. Bậc Ðiều Ngự loài Người, Biết được tâm tư ta, Chất vấn ta hốt hoảng, Kỳ diệu lông dựng ngược. Xưa ta thuộc bện tóc, Thần thông ta nhỏ mọn, Ta xem chúng vô dụng, Ta xuất gia đầu Phật, Xưa bằng lòng tế tự, Xem dục giới hàng đầu, Sau ta nhổ tận sạch Cả tham, sân và si. Ta biết các đời truóc, Thiên nhãn ta trong sạch, Thần thông biết tâm nguòi, Thiên nhĩ, ta đạt được. Do đích gì xuất gia, Bỏ nhà, sống không nhà, Ðích ấy ta đạt được, Mọi kiết sử tận diệt. ......
Nghe mà thấm từng lời Thầy | BUÔNG | Thầy Minh Thiền [09.10.2022].
36:01
Thích Minh Thiền Pháp Thoại
Рет қаралды 32 М.
Tâm được định đời đời an vui. Thuyết Pháp Thích Trí Huệ
1:02:31
Thuyết Pháp Thích Trí Huệ
Рет қаралды 3,9 М.
This Dumbbell Is Impossible To Lift!
01:00
Stokes Twins
Рет қаралды 35 МЛН
7 Days Stranded In A Cave
17:59
MrBeast
Рет қаралды 95 МЛН
When you discover a family secret
00:59
im_siowei
Рет қаралды 19 МЛН
Magic? 😨
00:14
Andrey Grechka
Рет қаралды 20 МЛН
Tụng Kinh A DI ĐÀ chùa Hoằng Pháp
46:45
Tâm Hoàn Official
Рет қаралды 48 М.
423 LỜI VÀNG PHẬT DẠY GIÚP SỐNG ĐỜI TỈNH THỨC VƯỢT THOÁT KHỔ ĐAU
1:36:40
TOÀN CẢNH Đại lễ VU LAN BÁO HIẾU 2024 | Chùa Hoằng Pháp
1:30:00
Chùa Hoằng Pháp - Việt Nam
Рет қаралды 18 М.
Vấn Đáp "SIÊU HAY - SIÊU HẤP DẪN" cùng SƯ TOẠI KHANH (11.10.2023)
26:53
Truyền Thông Phật Giáo
Рет қаралды 229 М.
Mới nhất 24.08.2024 - Thầy Thích Pháp Hòa (Hội trường Pinecrest event)
50:12
Pháp thoại Thầy Pháp Hòa
Рет қаралды 54 М.
BÍ QUYẾT GIỮ GÌN SỨC KHỎE BỀN LÂU DẺO DAI || Thuyết Pháp Thích Trí Huệ
53:41
This Dumbbell Is Impossible To Lift!
01:00
Stokes Twins
Рет қаралды 35 МЛН