Рет қаралды 961
Lăng Tự Đức (Khiêm Lăng) là nơi yên nghỉ ngàn thu của hoàng đế Tự Đức. Ngài là vị hoàng đế triều Nguyễn có thời gian trị vì lâu nhất, kéo dài 36 năm, từ năm 1847 đến năm 1883. Khiêm Lăng tọa lạc trong một thung lũng hẹp, thuộc làng Dương Xuân Thượng, tổng Cư Chánh cũ, nay là thôn Thượng Ba, phường Thủy Xuân, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 8 km.
Theo bảng thế thứ các hoàng đế triều Nguyễn, hoàng đế Tự Đức là vị hoàng đế thứ tư, sau các vị hoàng đế, Gia Long (1802 - 1820), Minh Mạng (1820 - 1841), và Thiệu Trị (1841 - 1847). Hoàng đế Tự Đức có tên thật là Nguyễn Phúc Thì, hay Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, là con trai thứ hai của hoàng đế Thiệu Trị. Theo luật phong kiến, lẽ ra anh trai Ngài là Hồng Bảo mới là người nối ngôi. Tuy nhiên, Hồng Bảo do tài năng và đức độ không vẹn toàn, nên bị vua cha Thiệu Trị phế truất khỏi ngôi kế vị. Hồng Nhậm được đưa lên ngai vàng, trở thành vua Tự Đức, một vị vua hiền lành, thương dân, và yêu nước, nhưng Ngài có thể chất yếu đuối, tính cách có phần bạc nhược, và bi quan. Hồng Nhậm lên làm vua trong bối cảnh đất nước đầy rẫy khó khăn, thù trong giặc ngoài, huynh đệ tương tàn vì tranh giành ngôi báu. Bản thân nhà vua lại hay đau ốm, nên không có con để nối dõi. Để trốn tránh thực tại, vua Tự Đức cho xây dựng khu lăng tẩm này, như một hành cung thứ hai, để tiêu sầu, và phòng lúc đột ngột qua đời. Nhà vua từng nói: “người khỏe còn lo chuyện bất thường, huống chi kẻ yếu!”.
Năm 1864, Lăng được khởi công xây dựng với sự tham gia của 5 vạn binh lính. Lúc mới bắt đầu xây dựng, lăng có tên là Vạn Niên Cơ. Do công việc lao dịch xây lăng quá khắc nghiệt, lại bị quan lại đốc thúc đánh đập tàn nhẫn, dân phu xây lăng đã nổi dậy khởi nghĩa, dẫn đến sự kiện loạn Chày Vôi, do anh em Đoàn Trưng và Đoàn Trực lãnh đạo. Trong cuộc khởi nghĩa này, nhân công dùng chày vôi, là một dụng cụ lao động làm vũ khí, nên họ bị triều đình nhà Nguyễn gọi là, giặc chày vôi. Cuộc khởi nghĩa thất bại. Những người tham gia lãnh đạo cuộc khởi nghĩa đều bị xử tử. Do sự việc này, vua Tự Đức phải đổi tên Vạn niên cơ thành Khiêm Cung vào năm 1866. Năm 1873, việc xây dựng Khiêm Cung mới được hoàn thành. Sau khi nhà vua băng hà năm 1883, Khiêm Cung được đổi tên thành Khiêm Lăng.
#langtuduc #khiemlang #ditichlichsu #dulichvietnam #dulichhue #codohue #dumuctriquan #dulichthegioi #ditíchlịchsử #dulịchviệtnam