Рет қаралды 12,688
Buổi giảng kinh Vô Ngã Tướng của Hoà Thượng Giới Đức gồm: tiểu ngã & đại ngã, 12 sắc thô, ngũ uẩn, sắc uẩn trong ngũ uẩn là sắc gì, 3 tâm sở bất thiện tạo thành ngũ uẩn (tham ái, ngã mạn, tà kiến), 2 nghĩa của uẩn, các chức năng của Tưởng và Thức, khoa học giải thích rõ ràng về vô ngã, và biến kế sở chấp trong Duy Thức Học vào ngày 9 tháng 4, 2020, tại Huyền Không Sơn Thượng.
Nguồn: KZbin Ngoạ Tùng Am
- Đức Phật giảng kinh Chuyển Pháp Luân cho 5 vị Kiều Trần Như trong 3 ngày, và 5 vị đều vào dòng thánh nhập lưu. Ngài giảng tiếp kinh Vô Ngã Tướng, và 5 vị đắc quả A-la-hán.
- 3 giai đoạn tín ngưỡng tôn giáo ở Ấn Độ: Phiếm thần, Đa thần và Nhất thần. Nhất thần giáo tồn tại đến nay & chủ trương luân hồi tịnh hoá. Brahman là đấng đại phạm thiên (đại ngã) chi phối tất cả sinh mệnh muôn loài. Dưới Brahman có các thần Sáng tạo (sanh, Brahmā), Bảo tồn (trụ, Vishnu) và Huỷ diệt (diệt, Sīva). Mỗi chúng sanh có Ātman (tiểu ngã), trầm luân theo nghiệp thiện ác, nhưng cuối cùng thể nhập vào Brahman.
- Sự chứng nghiệm vô ngã của đức Phật làm đảo lộn các hệ tư tưởng thời bấy giờ vì trước đó quan niệm hữu ngã có mặt ngàn năm rồi. Ngài minh sát thân tâm & thấy không có ngã hay thần nào cả mà chỉ là sắc, thọ, tưởng, hành & thức.
- Có 28 sắc pháp (12 sắc thô & 16 sắc tế), trong đó 12 sắc thô gồm ngũ căn sắc & 7 sắc đối tượng:
mắt-sắc, tai-thanh, mũi-hương, lưỡi-vị, thân - địa/hoả/phong (cái gì liền lạc với nhau đều nhờ nước nhưng ta không chạm nước được như chén, ly…).
- Sắc uẩn (rūpa khandha) trong ngũ uẩn là 1 tổ hợp kết nối của rất nhiều sắc, thọ, tưởng, hành, thức (ghi chú thêm: khi sắc thành sắc uẩn thì nó là xúc (căn-trần-thức) trong xúc-thọ-tưởng-tư & là xúc của sắc (căn-trần) vì lúc đó sắc uẩn không còn mang tính vật chất cố định mà mang tính duyên khởi của nhóm sinh lý [căn], vật lý [trần], tâm lý [thức]).
- Uẩn trong ngũ uẩn có 2 nghĩa: 1) cấu trúc, tổ hợp kết nối, nhóm; 2) chồng chất, che lấp
- Cốt lõi của kinh Vô Ngã Tướng mà đức Phật nói: sắc-thọ-tưởng-hành-thức nơi thân tâm này không phải là ta (tham ái), sở hữu của ta (ngã mạn) & tự ngã của ta (tà kiến), mà chúng vận hành theo quy luật nhân duyên quả tự nhiên của pháp trong thời gian ngắn hay dài (phỏng nhẹ thì mau lành, phỏng nặng thì lâu lành), ta không xen vào & thay đổi theo ý ta được, và nếu chấp thủ chúng là ta, của ta & tự ngã của ta thì rơi vào 3 tâm sở bất thiện (tham ái/ngã mạn/tà kiến).
- Hiện nay khoa học vật lý quan sát cả tế bào vi mô, không có sắc nào hết, chỉ là âm điện tử & dương điện tử mà trong đó tế bào cơ bản nơ-ron (neuron) có chức năng dẫn truyền các xung điện tử & tiếp nhận thông tin từ ngoại giới, rồi truyền qua tuỷ sống, lên não bộ, và xác nhận vật này, vật kia. Hệ thần kinh con người gồm hệ thần kinh trung ương (tủy sống & não, xử lý) & hệ thần kinh ngoại biên (tiếp nhận thông tin từ ngoại giới & đưa qua tuỷ sống), và chi phối các chức năng về cảm giác, vận động & thực vật. Khoa học không tìm ra chủ thể mà chỉ là tổ hợp kết nối của các hạt/sóng.
- Sở dĩ ta không dừng lại ở nghĩa 1 của uẩn (tổ hợp kết nối) mà ta chấp thủ & nhìn lầm ở nghĩa 2 của uẩn (chồng chất, che lấp) gọi là biến kế sở chấp mà gốc là từ tham sân. Chấp thủ các uẩn thì bên Duy Thức Tông gọi là biến kế sở chấp, mà nó là sự chấp nê & phân biệt sai lầm và là sự tạo tác của tâm ý có khái niệm.
- Đối tượng của tuệ tri là thực tánh pháp (parāmaṭṭha). Ta không thấy như thật thấy vì ta bị che lấp bởi khái niệm (paññatti). Khi có tham sân (hỷ-nộ-ái-ố-sầu-bi-khổ-ưu-não) là có uẩn rồi.
- Thọ như thế nào thì tuệ tri như vậy, thì bản ngã sẽ không xen vào được & không tạo thành thọ uẩn.
- Chức năng của Tưởng: 1) nhận biết (tri giác) hay nắm bắt ngoại trần 1 cách khái quát (đây là tưởng đơn thuần có đối tượng thực tánh); 2) thường xen tưởng tượng vào. Chức năng 1 thì ai cũng giống nhau, nhưng ta không dừng ở đó mà xen tưởng tượng, ký ức, quá khứ, kinh nghiệm, quan niệm… vào cái tưởng ban đầu & biến nó thành tưởng uẩn (thấy bóng cây lay mà tưởng ma nên sợ). Tưởng có nhiều cấp độ: a) đứa bé thấy đồng xu, không biết giá trị; b) người lớn thấy đồng xu, biết giá trị; c) người thợ chế tạo đồng xu thì biết giá trị & kỹ thuật chế tạo nó. Tưởng có lợi mà cũng có hại vì chức năng 2 của tưởng đinh ninh rồi thì không ai thay đổi được.
- Hành uẩn là các trạng thái tâm lý, nhưng thường tập trung vào tình cảm chủ quan, không trung thực, khiến cho hành xử của ta tạo biết bao đau khổ cho cuộc đời.
- Chức năng của Thức: 1) mọi nhận biết (tuỳ theo trình độ của mỗi người); 2) lưu trữ 4 uẩn trước (tuỳ theo môi trường giáo dục, văn hoá, xã hội…); 3) phát thông tin. Thức lưu trữ 4 uẩn sai lầm nên phát tán sai lầm. Tuỳ theo chức năng 1 & 2, mà chức năng 3 phát tán khác nhau.
- Khi thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm, mà ta trầm tĩnh & soi sáng mỗi động thái thân tâm đang diễn ra, thì sẽ giúp 5 biến hành tâm sở (xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư) không nhầm lẫn. Như vậy, ta luôn soi sáng ngũ uẩn bằng trí tuệ quán chiếu (thấy như thực) & như lý tác ý, thì tham ái, ngã mạn, tà kiến không xen vào được.