Рет қаралды 119
Việt sử 400 năm trước: "TỔ TIÊN ĐÀO DUY TỪ: ĐÀO DƯƠNG BẬT
Đào Dương Bật sinh năm 1254 tại Đông Sơn, Thanh Hóa, vốn dòng dõi hoàng thất Triều Lí. Do chính biến cuối Triều Lí năm 1225 mà tổ phụ Đào Dương Bật phải li tán vào Thanh Hóa và đổi từ họ Lí sang họ Đào, từ đó mà nên họ Đào của Đào Dương Bật.
Năm 1275 ông thi đậu tiến sĩ.
Trước ý đồ xâm lăng của quân Mông - Nguyên lần thứ hai, ông lãnh chức Thượng thư Bộ Binh (nay là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng). Vua Trần ban đất chiêu dân lập ấp, giao ông xây dựng hành cung Vũ Lâm, căn cứ địa kháng chiến Ninh Bình, căn cứ kháng chiến của Triều Trần.
Ông cùng Quốc Công Tiết chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn chỉ huy quân đội Nhà Trần thắng quân Mông - Nguyên lần thứ hai và ba.
Sau thắng trận Mông - Nguyên lần thứ ba, năm 1288, ông được phong là Chưởng đại độ - Đặc tiến Phụ quốc -Kim tử Vinh lộc đại phu - Khai quốc công thần.
Thời đất nước thanh bình, ông kiêm chức Hàn lâm viện -Đông các đại học sĩ - Nhập thị kinh diên - Chưởng lại bộ sử đài.
Sau đó, ông cùng một số vua tôi Nhà Trần xuất gia tu hành và có tên là Thiền sư Thụy hảo hảo Tiên sinh.
Ông viên tịch ngày 22 tháng 10 năm Ất Mão (19/11/1315), được phong là Đào Tướng Công - Trác vĩ thượng đẳng thần.
Tại nhà thờ họ Đào (xóm Dinh, thôn Đông Trang, xã Ninh An, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình) có bài vị ông và tại từ đường Đào tộc Đông Trang miền Nam (104 Đào Sư Tích, TP Dĩ An, tỉnh Bình Dương) có tượng ông.
Sinh thời, trước khi đi tu, ông có một nam tôn là Công thần công tử Nhàn Tâm.
Công thần công tử Nhàn Tâm sinh ra năm nội tôn, phát triển thành ngũ chi tộc (năm chi họ Đào Đông Trang):
Đệ nhất chi là ông Huyền Chương, lưu cư tại Đông Trang, Văn Lâm, Trường Yên nay là xã Ninh An, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình.
Đệ nhị chi là ông Võ Tâm, Công tòng Vương mệnh sứ sự ư Trung Hoa, bất hồi bản quán, tức là đi làm sứ thần Trung Hoa không trở về quê quán.
Đệ tam chi là ông Võ Ý, Công tòng Tiến sĩ chí Bạch Đằng Giang, diệt giặc đại thắng hồi hương về bản quán Lạng Giang mở đất lập họ Đào Song Khê, Yên Dũng, Bắc Giang, sinh ra hai cha con Tiến sĩ Đào Toàn Bân và Trạng nguyên Đào Sư Tích Triều Trần. Do chính biến Trần - Hồ một số con cháu giữ nguyên gốc họ Đào có Tiến sĩ Đông các đại học sĩ Đào Thục Viện còn một số phải đổi họ thành Dương - Phạm - Nguyễn ẩn tích li tán đi nhiều nơi mà hậu duệ là Tiến sĩ Dương Lệnh Nghị, Tiến sĩ Dương Thế Vinh, Tiến sĩ Dương Bật Trạc, Hoàng giáp Nguyễn Bảo Khuê, Hoàng giáp Nguyễn Duy Trường, Tiến sĩ Nguyễn Sư Phổ, Tiến sĩ Nguyễn Duy Thì, Tiến sĩ Nguyễn Công Tuyền và đều làm quan Triều Hậu Lê.
Đệ tứ chi là ông Đức Hạnh, lưu cư tại Đông Trang. Vào Triều Hậu Lê và Triều Nguyễn, nhiều hậu duệ của chi tộc là tướng quân được phong tước: Huệ Quốc Công Đào Sĩ Từ, Định Quận Công Đào Sĩ Định, Cống Quận Công Đào Sĩ Kì, Cẩm Quận Công Đào Sĩ Lễ, Hùng Nhuệ Hầu Đào Sĩ Bị, Tuấn Mỹ Hầu Đào Sĩ Hựu, Vinh Lộc Hầu Đào Sĩ Dụ, Triều Thắng Hầu Đào Sĩ Cường, Đại Khê Hầu Đào Sĩ Trụ, Trình Dũng Hầu Đào Sĩ Lí, Khâm Lương Hầu Đào Sĩ Đường, Hoan Khánh Hầu Đào Sĩ Viện, Diệp Tường Hầu Đào Sĩ Thận, Triệu An Hầu Đào Sĩ Thị.
Đệ ngũ chi là ông Phúc Thông, lưu cư tại Đông Trang; sau có một nhánh vào làng Hoa Trai, xã Vân Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, nội trấn Thanh Hoa mà hậu duệ là Đào Duy Từ, người vào Đàng Trong phò Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên, sau được truy phong là Thái sư - Hoằng Quốc Công - Đệ nhất khai quốc công thần Triều Nguyễn.
Đào Dương Bật là vị đại khoa bảng, vị đại quan văn võ song toàn, trung quân ái quốc, trọn đời phụng sự Triều Trần.
Phỏng văn bia đá Đào Dương Bật tại từ đường Đào tộc Đông Trang miền Nam: 104 Đào Sư Tích, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.", trích trang 29 - 31, biên khảo lịch sử "Đào Duy Từ và hậu thế", NXB Hội Nhà văn, 2019, Đào Duy An.
Clip. Nhà thờ họ Đào xóm Dinh, một Di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Đào Duy An quay sáng 19/4/2024.